Tap chi am nhac-logo

Tap chi am nhac

RFI

Góc vườn âm nhạc của RFI

Location:

United States

Networks:

RFI

Description:

Góc vườn âm nhạc của RFI

Language:

Vietnamese


Episodes
Ask host to enable sharing for playback control

Nhạc Pháp lời Việt : Daniel Hétu và tình khúc nhạc « Em hỡi, anh về đây »

8/23/2025
Vào đầu những năm 1970, thành công ở nước ngoài của nhạc sĩ trẻ tuổi Marc Hamilton đã mở đường cho khá nhiều tài năng xuất thân từ vùng Québec chinh phục thị trường quốc tế. Trong số này, một trong những giọng ca ăn khách đầu thập niên 1980 vẫn là Daniel Hétu. Nhiều sáng tác của anh từng được đặt thêm lời Việt, nổi tiếng nhất là nhạc phẩm « Je suis revenu » (Em hỡi, anh về đây). Sinh trưởng trong một gia đình nghệ sĩ ở Montréal, Daniel Hétu là con nhà nòi, từ nhỏ đã thừa hưởng năng khiếu âm nhạc từ thân phụ. Bố anh là nhạc sĩ Lucien Hétu (1928-1990) chuyên chơi đàn organ, ông bắt đầu sự nghiệp ghi âm vào năm 1959, chủ yếu nhạc hòa tấu và nhạc khiêu vũ. Trong vòng một thập niên, ông đã lập kỷ lục số bán với hơn một triệu đĩa nhạc, nhờ phát hành khoảng 30 album nhạc hòa tấu. Trước khi nối nghiệp thân phụ, Daniel Hétu (1950-2008) bắt đầu học đàn piano từ năm lên 4 (với thầy André Mathieu). Vào năm 11 tuổi, anh đoạt giải thưởng lớn nhờ album ca nhạc đầu tiên « The Parade of the Wooden Soldiers ». Cho đến năm 21 tuổi, ngoài việc học đàn và sáng tác, anh còn học cách hòa âm và điều khiển dàn nhạc tại trường cao đẳng Vincent d'Indy, ở quận Outremont. Hai cha con Lucien và Daniel Hétu có hợp đồng ghi âm tại cùng một hãng đĩa và sau một thời gian đi biểu diễn cùng với bố, Daniel Hétu sau đó tách ra riêng. Trong vòng hơn một thập niên, từ năm 1977 đến năm 1988, anh cho phát hành 5 album phòng thu gồm nhiều bài hát gốc, do chính anh sáng tác, hòa âm và trình bày. Vào năm 1979, anh thành công với giai điệu « Je t'attendais » (Con tim mong chờ), mang về cho anh hai lần đĩa vàng tại bang Québec. Trong tiếng Việt, bài này được nam danh ca Duy Quang chuyển lời thành nhạc phẩm « Anh vẫn đợi em » do ca sĩ Thái Hiền trình bày. Thành công này mở đường cho Daniel Hétu ghi âm nhiều bản nhạc ăn khách khác. Sự nghiệp của anh đạt đỉnh cao trong hơn 10 năm liền cho đến khi anh phát hành album phòng thu cuối cùng vào năm 1988. Ngoài ca hát, anh còn là giám đốc nghệ thuật phụ trách phần âm nhạc của nhiều chương trình truyền hình. Nhờ vào tài nghệ điều khiển dàn nhạc hòa tấu, anh đã hợp tác với nhiều ngôi sao vùng Québec như Ginette Reno, René Simard hay Patsy Gallant. Với tư cách là nhạc trưởng, anh cũng thường xuyên đi lưu diễn ở nước ngoài với nhiều danh ca Pháp như Charles Aznavour, Gilbert Bécaud hay Mireille Mathieu. Từ cuối những năm 1990, Daniel Hétu bắt đầu gặp nhiều vấn đề sức khỏe buộc anh phải ngưng công việc. Khó khăn trong đời tư tưởng chừng nhất thời, nào ngờ anh lại qua đời vì bạo bệnh vào năm 2008, ở tuổi 57. Người nghệ sĩ đa tài ra đi quá sớm để lại cho giới yêu nhạc nhiều giai điệu hay. Giới hâm mộ vẫn còn nhớ đến giọng ca của Daniel Hétu qua các nhạc phẩm như « L'amour que j'ai pour toi » (Tình yêu anh dành cho em), « Je cherche une fille » (Đi tìm cô bé xinh xinh) lời Việt của tác giả Nhật Ngân do ca sĩ Kiều Nga ghi âm. Trong số những sáng tác ăn khách của Daniel Hétu, bản nhạc nổi tiếng nhất (của anh) vẫn là « Je suis revenu » (Anh hỡi em về đây) lời Việt của tác giả Khúc Lan, được khá nhiều giọng ca trứ danh ghi âm lại trong đó có Ngọc Lan, Khánh Hà, Tú Quyên, với giai điệu ngọt ngào sâu lắng Cuối cùng anh vẫn về đây, từ đầu làm lại hôm nay, xung quanh chẳng gì thay đổi, như xưa khát vọng tràn đầy. Hão huyền con tim đã sống, giờ đây chẳng còn ảo vọng, đi đâu rồi cũng về đây, hoài công mong đợi đêm ngày, mong sao đừng cay đắng mãi, chỉ cần dang rộng vòng tay.

Duration:00:09:12

Ask host to enable sharing for playback control

Nhạc ngoại lời Việt : Triều đại Aguilar, ba thế hệ hát nhạc tình La Tinh

8/16/2025
Bộ sưu tập vàng (La Colleción de Oro) là tựa đề bộ đĩa gồm những tình khúc chọn lọc của Pepe Aguilar, do tập đoàn Universal cho phát hành vào mùa hè năm nay, nhân dịp kỷ niệm 35 năm sự nghiệp ghi âm của danh ca người Mexico. Về mặt tuổi đời, ông thành danh hầu như cùng thời với ông hoàng Luis Miguel và là đàn em của Juan Gabriel cũng như của Julio Iglesias. Sinh tại bang Texas, Hoa Kỳ, nhưng lại lớn lên ở Zacatecas, miền trung Mexico, Pepe Aguilar (tên thật là José Aguilar) xuất thân từ một gia đình mà bố mẹ đều là nghệ sĩ nổi tiếng : thân phụ là danh ca Antonio Aguilar, một trong những người tiên phong trong việc phổ biến dòng nhạc mariachi ở nước ngoài, còn thân mẫu là ca sĩ kiêm diễn viên Flor Silvestre, một trong những gương mặt hàng đầu trong thời kỳ hoàng kim của điện ảnh Mexico. Thừa hưởng năng khiếu của song thân, Pepe Aguilar dĩ nhiên từ lúc còn nhỏ đã chọn con đường sân khấu. Nhưng có lẽ, để khẳng định tính cách khác biệt, cho nên vào thời niên thiếu, anh chủ yếu hát nhạc rock, gia nhập nhóm "Equs" và thực hiện album đầu tiên của mình với nhiều ảnh hưởng của các ban nhạc rock lừng danh những năm1970, trong đó có Pink Floyd. Mãi đến sau này, khi anh bắt đầu sự nghiệp hát solo, thì lúc ấy anh dần tìm lại các dòng nhạc truyền thống của Mexico qua việc kết hợp âm thanh nhạc pop hiện đại với các bài dân ca cũng như các điệu nhạc mariachi hay ranchero. Gần giống với country, thể loại mariachi (với bộ đàn ghi ta, vĩ cầm và kèn đồng) thường phản ánh sinh hoạt miền đồng quê và đời sống trong các nông trại (ranchero). Thành danh ngay từ lúc phát hành album đầu tay vào năm 1990 (Pepe Aguilar con tambora), giọng ca này nhanh chóng trở thành một trong những nghệ sĩ quan trọng trong làng nhạc Mexicô, rồi từng bước anh chinh phục thị trường nói tiếng Tây Ban Nha, qua các đợt lưu diễn ở châu Mỹ. Đến đầu những năm 2000, qua tuyển tập nhạc tình kinh điển (Por el Amor de Siempre, và sau đó nữa là album Enamorado), bao gồm nhiều bài hát thịnh hành từ những năm 1960 của các nghệ sĩ trứ danh như Camilo Sesto, José José, Juan Gabriel, Luís Demetrio, Carlos Cuevas từng nổi tiếng với nhạc phẩm « Cha cha línda » … Pepe Aguilar đã thổi một làn gió mới vào những ca khúc vang bóng một thời. Thành công rực rỡ của album này đã củng cố hướng đi của anh, xen kẽ những giai điệu xưa như « Contigo Apprendi », hay « No soy de Aqui », với những sáng tác mới như Perdóname (Hãy tha thứ cho anh), Prometiste (Đừng quên lời hứa) Directo al corazon (Từ trong đáy tim) … Trong những năm sau đó, Pepe Aguilar thường hay ghi âm những tác phẩm « để đời » hầu ngỏ lời tri ân thế hệ của những nghệ sĩ đi trước, trong đó có những giọng ca tiêu biểu của thời kỳ hoàng kim của ranchero, dòng nhạc truyền thống của Mexico (như Pedro Infante, Javier Solis, Vicente Fernandez cũng như thân phụ Antonio Agular). Trong vòng ba thập niên sự nghiệp, Pepe Aguilar đã cho phát hành hơn 30 album phòng thu, bán được hơn 15 triệu album trên thị trường quốc tế. Thành công của các bản ghi âm đã đem về cho ông 5 giải Grammy La Tinh, 19 giải Lo Nuestro của Nam Mỹ và một ngôi sao trên Đại lộ Danh vọng Hollywood, nằm ngay bên cạnh ngôi sao của thân phụ Antonio Aguilar. Hồi tưởng lại những năm tháng mới vào nghề, Pepe Aguliar cho biết lần đầu tiên anh lên sàn diễn, anh chỉ mới có ba tuổi, lúc bấy giờ anh được hát chung với bố trên sân khấu nhà hát Madison Square Garden ở thành phố New York. Có lẽ cũng vì thế Pepe Aguilar luôn khuyến khích con cái đeo đuổi con đường nghệ thuật. Sau Antonio và Pepe Aguilar, đến phiên Leonardo và Angela nối nghiệp cha cũng như ông nội, khi chọn con đường nghệ thuật sân khấu. Riêng nữ ca sĩ Angela Aguilar, tuy chỉ mới có 21 tuổi nhưng đã thành công rực rỡ với album chuyên đề bolero phát hành trong năm qua, hội tụ những giai điệu kinh điển hàng đầu như « Besame mucho », « Solamente una vez », hay là « Toda una vida ». Có lẽ cũng vì thế mỗi lần nhắc đến dòng họ nghệ sĩ này, người hâm mộ ở Mexico thường gọi họ là « Triều đại Aguilar », khi ba thế hệ trong cùng...

Duration:00:09:06

Ask host to enable sharing for playback control

Nhạc Pháp lời Việt : Frédéric François trước sau vẫn hát tình ca

8/9/2025
Nhắc đến Frédéric François, người yêu nhạc Pháp nghĩ đến ngay một trong những giọng ca thành danh vào giữa những năm 1970. Khi thần tượng Mike Brant tự kết liễu cuộc đời vào năm 1975, anh đã để ngỏ sân chơi cho nhiều giọng ca nam chuyên hát nhạc tình, thị trường Pháp có Joe Dassin (người Mỹ), Patrick Juvet (Thụy Sĩ) hay Dave (Hà Lan). Còn tại vương quốc Bỉ, có làn sóng ca sĩ gốc Ý như Claude Barzotti, Claude Michel, Frank Michael và nhất là Frédéric François. Cũng như Frank Michael tên thật là Franco Gabelli, Claude Michel là Gianni Marzano, Frédéric François thật ra là nghệ danh của Francesco Barracato. Ông sinh năm 1950 trong một gia đình nghèo tại một thị trấn phía bắc đảo Sicilia. Gia đình ông rời Ý sang Bỉ định cư, năm ông chưa đầy hai tuổi. Thân phụ của ông (Peppino) làm nghề thợ mỏ và vào những dịp cuối tuần, Peppino thường hát tại các quán cà phê dành cho giới thợ thuyền những khúc dân ca miền Napoli cũng như các giai điệu cổ điển quen thuộc của Ý. Trong quyển hồi ký « Merci la vie » (Cảm ơn cuộc đời), Frédéric François cho biết chính thân phụ đã truyền cho ông niềm đam mê âm nhạc. Kỷ niệm « sân khấu » đầu tiên là vào năm lên mười, Frédéric François lúc ấy phải trèo lên ghế để cất giọng hát trước công chúng giai điệu kinh điển « O sole mio » tại quán cà phê của cộng đồng người Ý nhập cư. Từ thời còn nhỏ, ông tự học hát và sáng tác bằng đàn ghi ta. Năm 15 tuổi, song song với trường dạy nghề, ông theo học khoa thanh nhạc tại Nhạc viện thành phố Liège. Nhờ vào sự đào tạo bài bản này, vào năm 16 tuổi ông giành lấy hạng đầu cuộc thi hát (Microsillon d'argent) nhân một liên hoan ca nhạc. Giải nhất lúc bấy giờ là hợp đồng thu âm đĩa hát đầu tay, đồng thời người trúng giải có cơ hội hát trong phần mở đầu buổi biểu diễn của Michel Polnareff, người mà ông hằng mến mộ. Trong những năm mới vào nghề, ông ghi âm với nghệ danh François Barra, tên gọi theo tiếng Pháp và ngắn gọn hơn của Francesco Barracato. Mãi đến năm 19 tuổi (1969), ông mới lấy nghệ danh chính thức là Frédéric François. Sự nghiệp của Frédéric François thực sự cất cánh năm ông 21 tuổi. Nhạc phẩm « Je n'ai jamais aimé comme je t'aime » (Chưa bao giờ yêu ai như yêu em) chiếm hạng đầu thị trường Bỉ trong ba tháng liền khi được phát hành vào năm 1971. Bài hát này từng được tác giả Nhật Ngân chuyển sang lời Việt thành nhạc phẩm « Tình yêu đắm say » do ca sĩ Ngọc Bích trình bày. Thành công bước đầu này mở đường cho ông chinh phục thị trường khối Pháp ngữ. Từ năm 1973 trở đi, hầu như năm nào cũng đều có một bản hit đột phá của Frédéric François. Giọng ca này thật sự chinh phục công chúng Pháp vào năm 1984 với nhạc phẩm « Mon cœur te dit je t'aime » (Tim ta luôn nói yêu em). Khi mới vào nghề, Johnny Hallyday là thần tượng của giới trẻ (L'Idole des jeunes), trong khi Frédéric François dù còn trẻ lại trở thành thần tượng của giới trung niên và người cao tuổi (L'Idole des moins jeunes), một phần cũng do ảnh hưởng của thân phụ, ông thường hay hát « nhạc già » cũng như chuyên sáng tác theo các điệu nhạc xưa : rumba, cha cha, valse, paso, tango ….. Dù có thích hay không, cũng phải công nhận rằng Frédéric François đã tìm ra được cho mình một công thức giúp cho ông gặt hái nhiều thành công thương mại từ năm này qua năm nọ. Trong vòng 50 năm sự nghiệp, Frédéric François đã ghi âm hơn 40 album phòng thu, bán hơn 20 triệu đĩa hát trên thị trường khối Pháp ngữ. Ông trở thành nghệ sĩ Bỉ thứ ba thành công nhất ở nước ngoài chỉ sau Jacques Brel và Salvatore Adamo. Trong số hàng trăm ca khúc do chính ông sáng tác, đã có rất nhiều bài được ghi âm lại trong nhiều thứ tiếng. Riêng trong tiếng Việt, ngoài hai nhạc phẩm Tình yêu đắm say và giờ đây Muộn màng (Il est déjà trop tard) lời Việt của tác giả Lê Toàn, còn có giai điệu ăn khách « Si je ne te connaissais pas », từng được tác giả Khúc Lan đặt thêm lời thành nhạc phẩm « Từ khi biết em » do nam ca sĩ Tô Chấn Phong trình bày. Bằng những lời lẽ đơn giản thật thà, Frédéric François trước sau vẫn hát tình ca, cho muôn giai điệu thắm mềm...

Duration:00:09:05

Ask host to enable sharing for playback control

Nhạc ngoại lời Việt : Julio Iglesias, bộ sưu tập những bản nhạc Pháp

8/2/2025
"Mes chansons en Français" - Những bản nhạc Pháp của tôi, là tựa đề bộ đĩa chọn lọc của Julio Iglesias được hãng giải trí Sony Music cho tái bản vào mùa hè năm 2025. Tuyển tập này bao gồm những album đầu tay tập hợp các bản nhạc phóng tác của Julio nhằm chinh phục thị trường Pháp. Trong nhiều giai điệu ăn khách, có bài « Je n'ai pas changé » từng được tác giả Phạm Duy chuyển thành nhạc phẩm « Anh vẫn không đổi thay », do nhiều nghệ sĩ như Quang Dũng ghi âm lại. Có thể thấy là bộ đĩa này chủ yếu nhắm vào giới sưu tầm, tuyển tập bao gồm ba album phòng thu bằng tiếng Pháp đầu tiên của Julio, chỉ được phát hành trên đĩa nhựa 33 vòng thay vì trên CD hay trên mạng trực tuyến. Tại Pháp, người yêu nhạc khám phá giọng ca của Julio qua các bản phóng tác tiếng Pháp vào đầu thập niên 1980, tức là từ album phòng thu thứ nhì trở đi, nhưng thật ra Julio bắt đầu ghi âm trong tiếng Pháp từ đầu mùa xuân năm 1978. Trước khi có hiện tượng « Vous les Femmes », Julio từng bước chinh phục ngôi vua với những giai điệu ghi âm trong nhiều thứ tiếng. Riêng về các phiên bản phóng tác lời Việt, có khá nhiều bài hát chủ yếu dựa theo các giai điệu tiếng Pháp của Julio như « Le monde est fou, me monde est beau » từng được chuyển lời Việt thành nhạc phẩm « Đời bao mộng ước, đời quá điên cuồng », từng được các ca sĩ như Duy Quang hay Don Hồ ghi âm, mở đường sau đó cho rất nhiều ca khúc ăn khách khác như « Viens m'embrasser » (Lại gần hôn anh), Je n'ai pas changé (Anh vẫn không đổi thay) hay là « Nostalgie » từng được ca sĩ Duy Quang chuyển thành nhạc phẩm « Niềm thương nhớ ». Bộ đĩa nhạc Pháp của Julio được phát hành vào lúc mạng Netflix đang chuẩn bị một bộ phim tiểu sử (nhiều tập) về cuộc đời của ông hoàng dòng nhạc trữ tình. Theo tuần báo GQ Magazine, sau các giọng ca nổi tiếng của Mexico là Selena, Luis Miguel, hay Vicente Fernández, đến phiên sự nghiệp của Julio được Netflix (nền tảng trực tuyến) chuyển thể lên màn ảnh. Có nhiều khả năng, bộ phim tiểu sử (biopic) này được quay thành serie nhiều tập thay vì một bộ phim truyện dành cho màn ảnh lớn. Ban điều hành Netflix đã từng xác nhận, lần đầu tiên Julio Iglesias sẽ tích cực tham gia vào quá trình xây dựng kịch bản để quay thành bộ phim nhiều tập này. Sinh thời, Julio Iglesias đã lên ngôi thần tượng có cả danh vọng và tiền tài, thế nhưng đầu đuôi câu chuyện về đời ông, chưa bao giờ được kể lại. Theo tuần báo GQ Magazine, sau nhiều lần đắn đo cân nhắc, cuối cùng nam danh ca người Tây Ban Nha nay đã ngoài 80 tuổi, đã chấp nhận đề nghị làm phim tiểu sử, dùng kịch bản hư cấu để kể lại những câu chuyện có thật xuyên suốt hành trình của một trong những nghệ sĩ quan trọng nhất của làng nhạc quốc tế. Sau khi đọc được một lá thư rất cảm động từ cô Bela Bajaria giám đốc người Anh gốc Ấn, chuyên điều hành mảng nội dung trực tuyến của Netflix : dùng phim truyện tức là kịch bản hư cấu để kể lại những câu chuyện có thật xuyên suốt hành trình của một trong những nghệ sĩ quan trọng nhất của làng nhạc quốc tế. Việc tuyển lựa dàn diễn viên cũng sẽ khá quan trọng, để tái hiện sao cho xứng danh ca Julio qua nhiều giai đoạn khác nhau trong đời. Giữa chi tiết đời tư và nhân vật công chúng, hiện vẫn còn hơi sớm để biết rõ kịch bản sẽ ưu tiên, khai thác hướng nào. Tuy chưa có thông tin rõ ràng, nhưng điều chắc chắn là phim sẽ khắc họa những năm tháng Julio theo học ngành luật, quãng thời gian ông làm thủ môn cho đội bóng Real Madrid, trước khi tai nạn giao thông làm tan tành giấc mơ của Julio trở thành cầu thủ chuyên nghiệp. Đó là những nút thắt ly kỳ, những bước ngoặt thay đổi hẳn định mệnh của một đời người mà không ai có thể ngờ tới. Nhiều năm sau đó, Julio rốt cuộc lại trở thành một trong những nghệ sĩ hàng đầu của làng nhạc pop đương đại. Trong hơn nửa thế kỷ sự nghiệp, Julio Iglesias đã bán hơn 300 triệu album, thu âm trong 12 thứ tiếng. Ông trở thành nghệ sĩ La-tinh đầu tiên có tầm ảnh hưởng toàn cầu nhờ chinh phục được các thị trường lớn, trong đó có châu Mỹ, châu Âu và châu Á. Theo sách kỷ lục Guinness, Julio...

Duration:00:09:05

Ask host to enable sharing for playback control

Nhạc Pháp lời Việt : « Anh cần có em », giai điệu khó quên của Marc Hamilton

7/26/2025
Trong làng nhạc quốc tế, có nhiều giọng ca nổi lên rồi vụt tắt. Bài hát của họ nổi đình nổi đám khắp nơi, rồi không hiểu vì sao những giọng ca ấy lại biến mất khỏi tầm mắt. Đó không phải là trường hợp của ca sĩ người Canada Marc Hamilton, vì trong đời tác giả này đã cho ra mắt khoảng 10 album. Ông cũng được xem là nghệ sĩ Québec đầu tiên chinh phục được thị trường đĩa hát ngoài Canada. Sinh trưởng tại thị trấn Matane, trên bờ phía bắc của bán đảo Gaspésie, bang Québec, Marc Hamilton (1944-2022) từ thời còn nhỏ đã có năng khiếu chơi đàn ghi ta. Vào đầu thập niên 1960, khi làn sóng The Beatles đổ ập vào thị trường Bắc Mỹ, nhóm Tứ Quái đã gợi hứng cho rất nhiều thanh niên thời bấy giờ tham gia vào các ban nhạc rock. Ở tuổi 19, Marc Hamilton thành lập một nhóm nhạc (Shadols) cũng gồm 4 thành viên như The Beatles. Sau 4 năm hoạt động với nhóm, cuối cùng ông quyết định tách ra riêng và bắt đầu sự nghiệp solo, vào năm 24 tuổi. Marc Hamilton trở nên nổi tiếng một cách nhanh chóng nhờ sáng tác và ghi âm bài hát « Comme j'ai toujours envie d'aimer » (hiểu theo nghĩa Con tim như luôn muốn yêu), phát hành vào đầu năm 1970. Trong 6 tháng đầu, đĩa hát này đã bán được hơn một triệu bản tại Pháp. Trong khối Pháp ngữ, bản nhạc này đạt mức 8 triệu bản. Bài hát sau đó được dịch sang rất nhiều thứ tiếng kể cả tiếng Anh, Đức, Ý, Hà Lan, Tây Ban Nha, do các nghệ sĩ trứ danh ghi âm lại trong đó có Jean François Michael (Adieu jolie Candy), Hervé Vilard (Capri, c'est fini) hay RochVoisine (Hélène) ….. Còn trong tiếng Việt, giai điệu này từng được chuyển thành nhạc phẩm « Anh cần có em » do nam ca sĩ Tô Chấn Phong trình bày. Về hoàn cảnh sáng tác, giai thoại kể rằng Marc Hamilton đã soạn giai điệu này vào năm 1969, trong thời gian lưu trú tại Montpellier, miền nam nước Pháp. Lấy cảm hứng từ một khúc đàn ghi ta hòa quyện hai dòng nhạc folk và country trong lúc ông mò mẫm sáng tác, Marc Hamilton, lúc bấy giờ mới 26 tuổi, đã soạn thành bài hát « Comme j'ai toujours envie d'aimer » (Con tim như luôn muốn yêu), mà không hề ngờ rằng bản nhạc này sẽ đẩy ông lên vị trí đầu bảng xếp hạng tại Pháp và Québec và sau đó đến phiên thị trường khối Pháp ngữ. Một cách ngẫu nhiên, Marc Hamilton trở thành nghệ sĩ Québec đầu tiên đạt được thành công lớn ở nước ngoài. Cho đến nay, bài hát này vẫn là một trong những bản ghi âm gặt hái được nhiều doanh thu trong lịch sử ngành công nghiệp giải trí ở Québec, đạt vị trí quán quân tại Québec trong 13 tuần liên tục, bài hát sau đó cũng đã thành công tại hơn 70 quốc gia qua các bản phóng tác, ghi âm trong hơn 10 ngôn ngữ. Vì thế cho nên giai điệu « Comme j'ai toujours envie d'aimer » từng được Hiệp hội các tác giả và nhà xuất bản Canada (SOCAN) xếp vào danh sách những « bài hát kinh điển của vùng Québec », có ảnh hưởng lớn ở nước ngoài. Còn nhân dịp lễ kỷ niệm 50 năm ngày ra đời lá cờ Québec, bài hát của Marc Hamilton cũng được đưa vào danh sách của 50 bài hát tiêu biểu nhất của bang Québec. Tài năng của tác giả được công nhận bên cạnh nhiều nghệ sĩ trứ danh khác như Gilles Vigneault, Félix Leclerc, Raymond Lévesque, Claude Léveillée hay Jean-Pierre Ferland. Tên của Marc Hamilton được ghi vào Đài danh vọng dành cho các Ngòi bút sáng tác Canada (Canadian Songwriters Hall of Fame). Trong sự nghiệp sáng tác, Marc Hamilton đã thử sức với nhiều thể loại kể cả nhạc phim và nhạc kịch. Ngoài ca hát, ông còn là kỹ sư phụ trách phần hòa âm, chỉ huy dàn nhạc nhà hát lớn và nhờ vậy hợp tác với các nghệ sĩ tên tuổi như Gérard Manset hay Ennio Morricone. Marc Hamilton đột ngột qua đời vào năm 2022 tại Québec vì bệnh Covid, hưởng thọ 78 tuổi. Ông đã để lại hàng trăm bản sáng tác, gần 10 album phòng thu với nhiều bản nhạc hay. Thế nhưng, dường như chưa có giai điệu nào ăn khách bằng nhạc phẩm « Con tim như luôn muốn yêu » (Comme j'ai toujours envie d'aimer) mà ông sáng tác thời còn trẻ, khi mới vào nghề. Marc Hamilton hẳn chắc không phải là một giọng ca sớm nổi lên rồi vụt tắt, nhưng thành công tột bực của sáng tác đầu tay này, bỗng dưng...

Duration:00:09:10

Ask host to enable sharing for playback control

Tưởng niệm danh ca Kiều Nga : Còn mãi bao kỷ niệm tha thiết

7/19/2025
Một nụ cười khả ái, tính tình dễ thương, giọng hát ngọt ngào, trong sáng nhưng không kém phần biểu cảm đã giúp cho tên tuổi Kiều Nga trở thành một trong những giọng ca nổi bật trong làng nhạc Việt Nam ở hải ngoại. Giọng ca ấy giờ đây không còn nữa, ca sĩ Kiều Nga vừa qua đời ở San Jose, California hôm 13/07/2025, ở tuổi 65. Sau khi được đưa vào bệnh viện giải phẫu vì tai biến mạch máu não, cô đã không tỉnh lại sau nhiều ngày hôn mê. Ca sĩ Kiều Nga đã vĩnh viễn ra đi, khiến cho giới hâm mộ thương tiếc, để lại một khoảng trống trong tim của nhiều người yêu nhạc, đặc biệt là ở hải ngoại. Sinh trưởng tại Việt Nam trong một gia đình có 10 người con, Kiều Nga là con áp út, còn anh cả là danh ca Elvis Phương : hai anh em cách nhau 15 tuổi. Ca sĩ Kiều Nga từng cho biết : cô mê ca hát từ thời còn nhỏ, cho nên khi về học trường Lê Qúy Đôn ở Sài Gòn, hầu như buổi văn nghệ của trường cũng đều có sự tham gia của tiếng hát Kiều Nga. Sự nghiệp ca hát của Kiều Nga có cơ hội cất cánh sau khi cô đến định cư tại Hoa Kỳ vào mùa thu năm 1984. Từ đó cô thường hay nói đùa : có lẽ cũng vì sang Mỹ vào mùa Halloween, nên sau này cô lại thích xem phim ma. Thời gian đầu ở Mỹ, cô chưa có ý định đi hát, mãi đến khi gặp lại người bạn cũ là nhạc sĩ đàn ghi-ta Ngọc Trác, cô mới tham gia vào ban nhạc, chủ yếu đi hát trong các tiệc cưới, chứ chưa có cơ hội biểu diễn tại các show lớn. Chính tại đêm đám cưới của cô Thy Vân, con gái của nhạc sĩ trứ danh Anh Bằng, Kiều Nga mới có dịp trổ tài hát hai bản nhạc Pháp lời Việt : « Maman » (Mẹ hiền yêu dấu) bản gốc của Romeo lời Việt của ca sĩ Thanh Lan và nhất là « Oui devant Dieu » (Ngày tân hôn) bản gốc của Joaquin Preto, lời Việt của tác giả Phạm Duy. Sở trường hát nhạc Pháp nhờ học trường tây Nhờ vào buổi biểu diễn thành công này, Kiều Nga hai tháng sau được mời thu thanh cho trung tâm Asia, do nhạc sĩ Anh Bằng sáng lập vào năm 1985. Cho cuộn băng cát xét đầu tiên « Dạ vũ hồng » của trung tâm Asia, Kiều Nga ghi âm nhạc phẩm « Tu es le soleil » (Anh là mặt trời) bản gốc của Sheila, lời Việt của tác giả Vũ Xuân Hùng. Trong thời gian đầu thu đĩa hát thanh chuyên nghiệp, Kiều Nga học được tính kỹ lưỡng nếu không nói là cầu toàn từ nhạc sĩ Trần Ngọc Sơn phụ trách phần thu thanh : người trình bày không những cần có giọng ca hay, mà còn phải biết phát âm tròn vành rõ chữ, hát lời nào ra lời nấy. Đôi khi, chỉ vì không hài lòng với cách hát, mà cô mất hai tiếng đồng hồ chỉ để hoàn tất một bản thu âm. Các đĩa hát đầu tiên của Kiều Nga chủ yếu là các bản nhạc khiêu vũ hay nhạc Pháp phóng tác. Cô thành danh trước hết là nhờ vào nỗ lực bản thân. Tuy được nhiều người nghe hưởng ứng, nhưng trong hai năm đầu, không có bầu sô nào biết cô là em gái của danh ca Elvis Phương. Ngày đăng quang thành nữ hoàng new wave Tên tuổi của Kiều Nga lên như diều gặp gió. Khi được hòa quyện với giọng ca của Ngọc Lan, một tên tuổi khác cũng rất được nhiều người yêu thích trong những năm 1980, cặp bài trùng này được đăng quang thành hai « nữ hoàng của dòng nhạc new wave ». Đầu thập niên 1990, cả hai hợp tác với rất nhiều trung tâm như Hải Âu, Làng Văn, Người đẹp Bình Dương và sau đó là Thúy Nga-Paris By Night … Kiều Nga lúc bấy giờ mới có sáng kiến làm mới những bản nhạc cũ, bằng cách nối nhiều bài thành liên khúc trên một nền nhạc với lối hòa âm tân thời. Các cuộn CD với chủ đề « Liên khúc tình yêu » hát chung với Ngọc Lan và Trung Hành, thành công rực rỡ trên thị trường băng đĩa. Đến năm 1992, khi nhạc sĩ Anh Bằng giao công việc điều hành trung tâm Asia lại cho cô con gái Thy Vân, với sự hỗ trợ của nhạc sĩ Trúc Hồ, trung tâm này bắt tay thực hiện nhiều chương trình thu hình video trực tiếp. Kiều Nga thu hình cho nhạc phẩm « Xin còn gọi tên nhau » (Trường Sa) cho cuộn video « Tình yêu và tuổi trẻ » của Asia. Trước ống kính thu hình, hai cô ca sĩ Ngọc Lan và Kiều Nga có thêm cơ hội phát huy tài năng. Trong số này, có bài « Toi Jamais » (Anh thì không) bản gốc của Sylvie Vartan, lời Việt của tác giả Vũ Xuân Hùng, thu hình cho trung tâm Mây, trở...

Duration:00:09:22

Ask host to enable sharing for playback control

Người soi sáng đời ta, phiên bản lời Việt của nhạc phim « You light up my life »

7/12/2025
Đôi khi, có những giai điệu nghe rất quen thuộc, nhưng người yêu nhạc không còn nhớ rõ người soạn ca khúc là ai. Nhạc phẩm « You light up my life » với tiết tấu du dương nhẹ nhàng, thuộc vào hàng ca khúc vượt thời gian, cho dù sau đó cuộc đời của tác giả bài hát đã kết thúc trong hoàn cảnh khá bi đát. Trong tiếng Việt, bài này từng được phóng tác thành nhạc phẩm « Người soi sáng đời ta ». « You light up my life » là ca khúc chủ đề của bộ phim tình cảm lãng mạn cùng tên năm 1977 do Joseph Brooks đạo diễn, nói về những khó khăn trong đời nghệ sĩ, đằng sau ánh đèn sân khấu. Ngoài đời, đạo diễn Joseph Brooks chẳng những viết kịch bản và quay phim, ông còn sáng tác luôn giai điệu chủ đề cho bộ phim của mình. Người đầu tiên ghi âm bài này là ca sĩ Kasey Cisyk. Phiên bản gốc từng được sử dụng trong phim, nhưng giữa cô ca sĩ và anh đạo diễn, lại nảy sinh bất đồng, cho nên đến khi cho ra mắt bộ phim, đạo diễn Joseph Brooks lại bỏ hẳn bản gốc và thuê một ca sĩ khác là Debby Boone ghi âm lại bài hát này để phát hành dưới dạng đĩa đơn. Bản thân Debby Boone không có nhiều kinh nghiệm thu thanh, nhưng cô là con gái ruột của Pat Boone, một ca sĩ nổi tiếng là sùng đạo, ăn khách vào những năm 1950 với số người hâm mộ trung thành, đông đảo. Ngoài ra, sở dĩ Debby Boone được chọn là vì cô có một giọng ca rất gần giống với ca sĩ bản gốc Kasey Cisyk. Chỉ có những người nào có đôi tai thật tinh tường mới có thể nhận ra nét khác biệt giữa phiên bản thu sau của Debby Boone và bản gốc được sử dụng trong phim. Vì lý do nào đạo diễn Brooks không sử dụng bản ghi âm của Kasey Cisyk làm đĩa đơn, vẫn chưa ai biết rõ. Bản thân cô ca sĩ Kasey Cisyk đã qua đời sớm vì bệnh ung thư (1998) ở tuổi 44, cho nên chưa bao giờ kể lại câu chuyện của người trong cuộc. Theo gia đình ca sĩ quá cố, đạo diễn Brooks đã muốn trả đũa Cisyk Kasey vì cô đã nhiều lần từ chối lời tán tỉnh của nhà đạo diễn. Bài hát phổ biến ở Mỹ nhân ngày tân hôn Dù gì đi nữa, bản nhạc « You light up my life » về mặt doanh thu là một trong những tình khúc ăn khách nhất năm 1977, chiếm hạng đầu thị trường Mỹ trong 10 tuần lễ liên tục, trước khi nhường ngôi vị quán quân lại cho môt bản nhạc phim khác là « How deep is your love » của nhóm Bee Gees, nhạc chủ đề của bộ phim « Saturday Night Fever ». Một năm sau, thành công của bài hát này đã đem về cho đạo diễn Joseph Brooks 4 giải thưởng lớn là giải Grammy, Oscar, Quả cầu vàng và giải ASCAP của Hiệp hội các nhà soạn nhạc, tác giả và nhà xuất bản Mỹ dành cho Bài hát hay nhất trong năm. Đây là bản nhạc ăn khách duy nhất (one hit wonder) của Debby Boone, nhưng trong nhiều thập niên liền lại trở thành bài hát rất phổ biến ở Mỹ nhân ngày tân hôn. Debbie Boone cho biết cô không còn nhớ mình đã biểu diễn bài này bao nhiêu lần trong các tiệc cưới. Về phần đạo diễn Joseph Brooks, sự nghiệp làm phim và viết nhạc của ông kéo dài trong suốt thập niên 1980, rồi chìm dần vào quên lãng. Vào mùa hè năm 2009, Joseph Brooks xuất hiện trở lại trước ống kính truyền hình nhưng lần này trong chuyên mục điều tra hình sự. Đạo diễn Brooks bị nhiều phụ nữ tố cáo về tội chuốc thuốc mê và lạm dụng tình dục. Gần hai năm sau, vào mùa xuân năm 2011, trước khi phiên tòa xét xử được ấn định, bạn thân của ông mới phát hiện đạo diễn Joseph Brooks đã tự kết liễu cuộc đời, để lại một bức thư tuyệt mệnh dài ba trang. Trong gần nửa thế kỷ qua, bài hát « You light up my life» này đã được rất nhiều nghệ sĩ ghi âm lại, trong số các phiên bản nổi tiếng có Kenny Rogers, Leann Rimes, nhóm Westlife, thần tượng Whitney Houston và nhất là phiên bản phúc âm « thần sầu » của nữ hoàng nhạc soul Atrretha Franklin. Trong tiếng Việt, « You light up my life » đến thời điểm này đã có khá nhiều phiên bản phóng tác khác nhau. Lời thứ nhất « Anh soi sáng đời em » của tác giả Phạm Duy do Thanh Mai trình bày, lời thứ nhì «Tình anh nắng hồng» được cho là của tác giả Nhật Ngân do Kiều Nga ghi âm. Ngoài ra, bài này còn có thêm nhiều bản lời Việt khác như « Chiếu sáng đời em » của Thúy Vi, « Người soi sáng...

Duration:00:09:08

Ask host to enable sharing for playback control

Lalo Schifrin, một đời cống hiến cho âm nhạc

7/5/2025
Chỉ cần nghe những nốt nhạc đầu, hầu như mọi người đều có thể nhận ra ngay nhạc chủ đề của loạt phim « Mission: Impossible » (Nhiệm vụ bất khả thi). Ban đầu được soạn cho phim truyền hình, giai điệu do Lalo Schifrin sáng tác tiếp tục chinh phục thế hệ thời nay qua loạt phim với thần tượng Tom Cruise trong vai chính (điệp viên Ethan Hunt). Ông vừa qua đời hôm 27/06/2025 tại Los Angeles hưởng thọ 93 tuổi. Thương hiệu « Nhiệm vụ bất khả thi » nổi tiếng trên toàn thế giới, đem lại danh vọng tiền tài cho nhà soạn nhạc người Argentina, thế nhưng chi tiết nổi bật ấy lại phần nào che khuất một sự nghiệp đồ sộ : sinh thời, Lalo Schifrin đã sáng tác hơn 100 album nhạc phim, gần 300 bản nhạc jazz và La Tinh, 60 tác phẩm thính phòng (kể cả concerto và giao hưởng)… Trong suốt sự nghiệp trải dài trên 6 thập niên, Lalo Schifrin đã gặt hái nhiều thành công và luôn hòa quyện nhiều thể loại với nhau, ông tạo ra được một ngôn ngữ âm nhạc tuy có nguồn gốc hàn lâm, nhưng vẫn dễ tiếp cận. Sinh trưởng tại thủ đô Argentina (1932-2025), Lalo Schifrin đã nối bước thân phụ, nguyên là nhạc trưởng chỉ huy dàn nhạc giao hưởng thành phố Buenos Aires tại Nhà hát lớn Teatro Colón (có từ năm 1857). Thời còn nhỏ, ông được đào tạo bài bản về âm nhạc, ông thích cả hai dòng nhạc jazz và cổ điển, nhưng lại không muốn giới hạn mình ở một trường phái nào. Trong quyển hồi ký của mình « My life in music », ông kể lại thời gian ông tầm sư học đạo ở Paris (1952-1956), dưới sự hướng dẫn của hai nhạc sư Olivier Messiaen và Nadia Boulanger. Để kiếm sống, ông bắt đầu chơi đàn piano trong các quán nhạc jazz trên khu phố Saint Germain des Prés. Tài nghệ chơi đàn của ông lọt vao tai nghệ sĩ nhạc jazz nổi tiếng Dizzy Gillespie. Từ cuộc gặp gỡ quan trọng này, Lalo Schifrin vào đầu những năm 1960, đã sáng tác cho Dizzy Gillespie nhiều tác phẩm quan trọng, trong đó có « Gillespiana », nhờ vậy mà tạo dựng dược uy tín của một tài năng mới với các hãng ghi âm nhạc jazz của Mỹ, đồng thời giúp phổ biến dòng nhạc bossa nova ở Hoa Kỳ. Nhạc jazz chính là bệ phóng đưa ông vào quỹ đạo thành công của làng nhạc phim. Ông sáng tác bản nhạc chủ đề đầu tiên của mình vào năm 1964 cho bộ phim Pháp « Les Félins » của đạo diễn René Clément với Jane Fonda và Alain Delon trong vai chính. Sau này, ông cho biết là thành công trong sự nghiệp của ông một phần là do đạo diễn người Pháp, đã tạo cơ hội cho ông phát huy tài năng, phá vỡ các quy tắc và kết hợp nhạc giao hưởng với nhạc jazz và âm thanh thử nghiệm. Một chi tiết nổi bật che khuất sự nghiệp đồ sộ Từ giữa những năm 1960 trở đi, sau thành công ngoạn mục của « Nhiệm vụ bất khả thi », Lalo Schifrin trở thành một trong những tên tuổi lớn ở Hollywood, được nhiều nhà sản xuất mời hợp tác. Ông sáng tác nhạc nền cho nhiều bộ phim nổi tiếng như « Bullitt » với Steve McQueen (1968), « Dirty Harry » với Clint Eastwood (1971), « Mãnh Long Quá Giang » của Lý Tiểu Long (1973), loạt phim truyền hình « Starsky & Hutch » (1975), « Brubaker » với Robert Redford (1980) « Tango » của Carlos Saura (1997), cũng như loạt phim « Rush Hour » (1998-2007) với Chris Tucker và Thành Long (Jackie Chan) trong vai chính… Trong quyển hồi ký, ông cho biết là tại quán căng tin của hãng phim MGM, ông là một trong những người được ngồi cùng bàn với tác giả đàn anh Bernard Herrmann (1911-1975), nhà soạn nhạc trứ danh của các bộ phim ăn khách nhất của Alfred Hitchcock (Psycho, Vertigo, North by Northwest ….). Cả hai tác giả thường trao đổi quan điểm về nhạc sĩ Saint-Saëns, đôi bên đều tạo cầu nối giữa các thể loại âm nhạc, để tạo ra một ngôn ngữ chung dễ tiếp cận. Trong sáng tác, Lalo Schifrin thường hay dùng thủ pháp « đối âm », khá phổ biến trong hai dòng nhạc thời Phục Hưng và Baroque. Tuy không thể tinh tế bằng bậc thầy Ravel hay táo bạo như Stravinsky, nhưng cách dùng đối âm, vận hành song song ít nhất là hai giai điệu, hai vế chuyển động linh hoạt mà vẫn hài hòa, cân đối nhờ được kết hợp chặt chẽ, Lalo Schifrin đã nâng nhạc phim lên một tầm cao mới, các bản hòa âm đa tầng...

Duration:00:09:01

Ask host to enable sharing for playback control

Mùi hương kỷ niệm, tuyển tập đầu tiên của Yann Muller

6/28/2025
Madeleine, hiểu theo nghĩa đen là bánh vỏ sò, còn hiểu theo nghĩa bóng là Mùi hương kỷ niệm. Đây là tựa đề tuyển tập các bản nhạc cover tiếng Pháp đầu tay của nhà hòa âm Yann Muller. Thành danh từ khoảng một thập niên nay, Yann Muller chủ yếu phát hành trực tuyến các bản hòa âm của mình, nhưng đây lại là lần đầu tiên anh cho ra mắt album trên CD. Bao gồm 12 bản nhạc tiếng Pháp quen thuộc với lối hòa âm mới, tuyển tập của Yann Muller bắt nhịp cầu với quá khứ, mùi hương nào (của chiếc bánh madeleine của Proust) thoảng bay rất nhẹ lại tạo cơ hội cho người nghe tìm lại nhiều kỷ niệm đẹp theo điệu ru trong nắng hè. Madeleine không chỉ là một album đơn thuần, mà còn tôn vinh các bản nhạc Pháp kinh điển, một lời tri ân dành cho gia đình vì theo Yann Muller, hầu hết cac bản nhạc đều gắn liền với những kỷ niệm thời thơ ấu, những giai điệu anh từng được nghe khi còn nhỏ ở trong nhà, trên xe hơi hoặc khi đi nghỉ hè cùng với bố mẹ và người thân. Các bản hòa âm của Yann Muller vì thế dễ chạm đến trái tim của người nghe thuộc nhiều thế hệ, do các bài hát phản ánh hơn nửa thế kỷ nhạc Pháp, từ Françoise Hardy, France Gall, Dalida, Céline Dion cho đến Michel Delpech ….. Sinh trưởng tại thành phố Nice, Yann Muller vào nghề ban đầu như một tay DeeJay, chuyên hòa nhạc vào những dịp cuối tuần tại quán cà phê lớn trên quảng trường Place des Lices ở trung tâm thị trấn Saint Tropez. Ngay từ những năm tháng đầu, Yann Muller thu hút được sự chú ý của công chúng vì anh chơi nhạc Pháp với phong cách nhạc pop điện tử. Các bài hát do anh hòa âm, đều là những giai điệu quen thuộc cho nên người nghe khi bước ra sàn nhảy, đều có thể hát theo. Khi mới vào nghề, Yann Muller chọn hòa âm như một thú giải trí, nhưng đến khi chia sẻ trên mạng (chủ yếu là Spotify, Deezer và YouTube) nào ngờ các bản hoà âm của anh lại chạm ngưỡng một tỷ lượt stream trên các mạng trực tuyến. Vì thế cho nên, trong nam nay, anh mới có ý tưởng phát hành CD, tập hợp các bản hòa âm chọn lọc, yêu thích nhất của mình. Yann Muller đã gầy dựng tên tuổi của mình bằng cách « đọc lại » những nhạc phẩm kinh điển của Pháp theo lối hòa âm tân thời, hiện đại. Thế giới âm thanh của Yann Muller thường là pop điện tử, những giai điệu đầy sức cuốn hút, nhịp đập sôi động mà vẫn dịu dàng. Anh hòa quyện những giai điệu nhạc pop với soul, jazz và thậm chí bossa nova với các nhịp điệu lôi cuốn, cách sử dụng nhạc khí như ghi ta, piano hay kèn dông đem lại cho các bản hòa âm nhiều sắc thái, khi thì ấm nồng lúc thì cháy bỏng . Không phải ngẫu nhiên tập nhạc đầu tiên của Yaan Muller được phát hành vào dịp đầu hè, âm thanh tropical house hay reggae chính là những nhịp điệu nhẹ nhàng dễ nghe nhất vào mùa hạ. Trên số 12 bản hòa âm mới của tập nhạc Madeleine, không phải bản nào cũng vượt trội. Có lẽ do vấn đề tác quyền, Yaan Muller không thể đụng đến bản gốc, mà phải làm lại toàn bộ ca khúc bằng cách chọn những giọng ca sao cho thật gần với nguyên tác. Những bản cover của anh theo phong cách nhạc nhảy khó mà qua mặt nổi các bản gốc của Céline Dion (Prière païenne / Pour que tu m'aimes encore) hay của Jean Jacques Lafon (Le géant de papier / Lạc mất mùa xuân). Ngược lại, trong vai trò của một nhà beatmaker, Yann Muller lại thành công khi hòa quyện nhiều luồng ảnh hưởng để tạo ra một nhịp đập mới cho bài hát trên các giai điệu như Mourir sur scène (Chết trên sân khấu) hay Laissez moi danser (Khiêu vũ bên nhau). Âm thanh của Yaan Muller linh động uyển chuyển, nhưng lại phảng phất lưu luyến chứa chan hoài niệm. Nhà hòa âm đưa vào trong những bản nhạc của mình nhiều tầng lớp và hiệu ứng âm thanh, khai thác không gian hồi tưởng mơ mộng, ký ức cô đọng để tạo thành một cõi muôn trùng, dập dìu nhịp sóng.

Duration:00:09:10

Ask host to enable sharing for playback control

"Khi anh cần em", phiên bản lời Việt của nhạc phẩm "When I need you"

6/21/2025
Trong làng nhạc pop quốc tế, When I need you thuộc vào hàng ca khúc kinh điển, được nhiều nghệ sĩ hàng đầu ghi âm lại. Bản tiếng Pháp (Je pardonne) là của Sylvie Vartan, còn phiên bản tiếng Anh từng ăn khách qua các giọng ca trứ danh như Céline Dion, Rod Stewart và nhất là Julio Iglesias. Bài này từng được đặt thêm lời Việt thành nhạc phẩm Khi anh cần em. Ông hoàng nhạc tình người Tây Ban Nha Julio Iglesias ghi âm lại bài hát When I need you cho album Starry Night gồm các giai điệu cover, phát hành vào năm 1990, thời ông hợp tác với nhạc sĩ người Anh Albert Hammond. Cũng chính Albert Hammond đã giúp cho Julio chinh phục thị trường Anh-Mỹ khi soạn bài song ca Cho những người tôi yêu (To all the girls I've loved before) cho hai nam ca sĩ Julio Iglesias và Willie Nelson. Trong tiếng Việt, bài này từng được hai nam danh ca Tuấn Ngọc và Duy Quang ghi âm lại. Trong nguyên tác, When I need you là một bài hát nổi tiếng do Albert Hammond và Carole Bayer Sager đồng sáng tác. Bài này được phát hành lần đầu tiên vào năm 1976 như ca khúc chủ đề của album phòng thu cùng tên thứ 5 của Albert Hammond. Gần một năm sau đó, đến phiên ca sĩ Leo Sayer thành công với phiên bản của mình, do Richard Perry sản xuất. Bản nhạc này lập kỷ lục số bán trên thế giới, đạt vị trí quán quân trên thị trường Anh quốc vào đầu năm 1977, đồng thời giành hạng đầu bảng xếp hạng Billboard thi trường Hoa Kỳ. Trả lời phỏng vấn của hai nhà báo Jon Kutner và Spencer Leigh, đồng tác gia quyển sách 1000 UK #1 Hits, nam danh ca Leo Sayer cho biết anh rất ngưỡng mộ tài nghệ sáng tác của cặp bài trùng Sager/Hammond. Nhóm sáng tác này đã thành công với một loạt bản hit như Groovy kind of love, 99 miles from L.A hay It never rains in Southern California... Riêng giai điệu When I Need You nghe tuyệt vời như một bản nhạc blues, và Leo Sayer đã thu thanh bài này với lối phối khí theo thể loại phúc âm với tiếng đàn organ giống như nhạc phẩm I've been loving You too long của Otis Redding, nhưng sau đó Leo Sayer lại đổi ý và đã chọn một lối hòa âm nhẹ nhàng, phù hợp hơn với nội dung bài hát. Về mặt giai điệu, điệp khúc của When I need you giống hệt với một phần của bài hát Famous Blue Raincoat của ca sĩ kiêm tác giả người Canada Leonard Cohen (phút 1'15), đồng thời giai điệu có nhiều nét tương tự như trong bài hát Little Jeannie của Elton John, do vậy đã làm nảy sinh tranh chấp kiện tụng. Tuy nhiên, theo các nhà nghiên cứu âm nhạc, cách dùng hợp âm trong đoạn nhạc này khá phổ biên, từng được sử dụng từ lâu, từ thời của Schubert, cho nên giờ đây, bản quyền đã thuộc về miền công cộng. When I need you thành công lớn trên thị trường quốc tế, mỗi thập niên đều có phiên bản cover ăn khách. Giai điệu này từng được phóng tác sang 15 ngôn ngữ, kể cả tiếng Mã Lai và Quan thoại. Còn trong tiếng Việt, nhạc phẩm này đã có nhiều lời phóng tác khác nhau. Lời Việt đầu tiên Khi em lầm anh là của tác giả Nhật Ngân qua phần trình bày của Don Hồ. Lời Việt thứ nhì Khi anh cần em do nam ca sĩ Bằng Kiều tự đặt lời và ghi âm. Lời Việt thứ ba là của tác giả Song Nguyễn chuyển thành nhạc phẩm Tình vẫn hoài mong qua phần song ca của Tú Linh và Nguyễn Đức... "Khi bao nỗi nhớ ngập hồn, ta cần em như hơi thở, chỉ cần khép kín đôi mắt, đôi ta lại gần bên nhau. Gần nhau lòng ai nào thấy, xa rồi mới nhớ vòng tay, làn da hơi thở biết mấy, giữ anh ấm áp đêm ngày. Không sao quên nổi nụ cười, phải đi đến tận chân trời, phiêu lãng trọn đời mới hiểu, nhịp tim lệch mất một nguời..."

Duration:00:09:09

Ask host to enable sharing for playback control

The Beach Boys : Hết rồi những « rung cảm tuyệt vời »

6/14/2025
Nhắc tới The Beach Boys, giới yêu nhạc nghĩ tới ngay những giai điệu vui tươi mùa hạ, ấm áp nắng hanh vàng, nhẹ nhàng như gió thoảng, lướt sóng biển nhịp nhàng. Nhờ vào trưởng nhóm Brian Wilson, ban nhạc The Beach Boys trở thành một trong những biểu tượng văn hóa Mỹ thập niên 1960. Tài năng ấy giờ đây không còn nữa. Brian Wilson vừa qua đời tại Mỹ hôm 11/06/2025, chỉ vài ngày trước khi ông ăn mừng sinh nhật 83 tuổi. Sinh trưởng tại Inglewood, bang California, Brian Wilson (1942-2025) lớn lên trong một gia đình đông con. Tuổi thơ của ông khá bất hạnh trong một gia đình thiếu hòa thuận, ông bố vũ phu (nhà quản lý kiêm nhạc sĩ Murry Wilson) thường hay đánh đập vợ con, vì là con trai cả, Brian thường hứng đón thay thế vì ông muốn che chở thân mẫu và đàn em (Dennis và Carl Wilson). Trong quyển hồi ký viết với nhà văn Ben Greenman, Brian Wilson cho biết khi còn nhỏ, ông đã bị điếc bên tai phải, chỉ vì bố ông đánh con mà không hề nương tay. Được thành lập vào năm 1961, nhóm The Beach Boys trong thời gian đầu được đặt dưới sự quản lý của ông bố, sáng tác và ghi âm những giai điệu bắt chước theo các bản nhạc rock ăn khách của Chuck Berry. Thế nhưng, tài nghệ của Brian Wilson cao hơn hẳn các nhạc sĩ cùng thế hệ. Chịu nhiều ảnh hưởng của Gerswhin, Brian Wilson đã nâng nhạc pop rock lên một tầm cao mới. Ông bắt tay vào việc thử nghiệm âm thanh, xen kẽ ca khúc với nhạc không lời, sử dụng âm thanh tiếng động tự nhiên, tận dụng những nhạc khí ít phổ biến thời bấy giờ. Kết quả là các nhạc phẩm như « Surfin' USA », « Wouldn't it be nice » hay « God only knows » (mà Paul McCartney đánh giá là một trong những bài hát hay nhất từng được viết) thường có lối hòa âm đa tầng phức hợp, lối hát bè nhuần nhuyễn tinh tế. Tập nhạc « Pet Sounds » (phát hành vào năm 1966 cùng thời với Good vibrations), một trong những dự án tiên phong của thể loại album concept trở thành một album để đời và thường được giới chuyên gia Tây phương xếp vào hàng 10 tập nhạc quan trọng nhất mọi thời đại. Brian Wilson có tư tưởng cầu toàn, cho nên tâm trí thường hay bị dằn vặt ám ảnh. Từ những nỗi ám ảnh ấy, ông đã cho ra đời những bản nhạc thuộc vào hàng kiệt tác, trong đó có nhạc phẩm « Good Vibrations » (Những rung cảm tuyệt vời) nói về khả năng ngoại cảm trước những rung động của vũ trụ. Để hoàn tất bài hát này, Brian Wilson đã thực hiện 19 đợt thu thanh và hòa âm. Từ 90 giờ ghi âm trên băng nhựa, ông đã hòa quyện kết nối để cho ra đời phiên bản hoàn chỉnh nhất. Cũng từ đó, Brian Wilson được mệnh danh là phù thủy âm thanh, bàn tay như thể có phép lạ để biến hóa nốt nhạc thành giai điệu muôn trùng, thu nhỏ càn khôn, biển trời sông núi, vào trong những bản giao hưởng bỏ túi. Người có tài cũng hay lắm tật. Những nỗi ám ảnh dằn vặt càng giúp giai điệu của Brian Wilson thăng hoa bao nhiêu, thì về mặt đời tư, cũng làm cho tinh thần của ông bị chìm sâu vào chứng trầm cảm bấy nhiêu. Kể từ giữa những năm 1970, Brian Wilson rơi vào vòng lẩn quẩn của nghiện ngập ma túy. Sự nghiệp sáng tác của ông vì thế cũng không còn xuất sắc như trước. Mãi đến hơn hai thập niên sau, khi ông gặp người vợ thứ nhì (1995), thì lúc ấy ngòi bút sáng tác của ông mới tìm lại niềm đam mê cháy bong của cái thuở ban đầu. Đối với giới sành điệu, ban nhạc The Beach Boys được xếp vào hàng đại thụ của làng nhạc rock, ngang hàng với nhóm Tứ Quái The Beatles và Những hòn đá lăn The Rolling Stones. Cuộc đối đầu giữa The Beatles và The Rolling Stones thực ra chỉ là khiên cưỡng giả tạo, do các nhà quản lý dàn dựng trên mặt báo để thu hút sự quan tâm của dư luận. Ngược lại, đã có một cuộc tranh tài thực thụ giữa phong trào lướt sóng ở California (The Beach Boys) và làn sóng âm nhạc đến từ Anh (The Beatles). Với ngày ra đi của Brian Wilson, làng nhạc quốc tế vừa đánh mất một tài năng ngang tầm với Paul McCartney. Đối với giới hâm mộ The Beach Boys, giờ đây không còn những giai điệu tươi rói, từ nay hết rồi những rung cảm tuyệt vời.

Duration:00:09:05

Ask host to enable sharing for playback control

Nhạc ngoại lời Việt : « Yêu đến muôn đời », bản gốc là của ai ?

6/7/2025
Tựa đề bản nhạc là bằng tiếng Nhật, nhưng giai điệu bài hát được viết trong tiếng Anh. Ca sĩ trình bày nguyên tác Sam Kapu Jr lại đến từ đảo Hawaii. Cho nên vào thời điểm phát hành nhạc phẩm « Choto Mate Kudasai » đầu thập niên 1970, đã từng có sự nhầm lẫn về nguồn gốc bản nhạc. Giai điệu này đến từ xứ nào ? Bài hát gốc do ai sáng tác ? Trong tiếng Nhật, « Choto Mate Kudasai » (còn được nhiều nguồn ghi chép là Chotto Matte Kudasai) có nghĩa là làm ơn chờ giây lát. Bài hát này do nam ca sĩ Sam Kapu Jr trình bày lần đầu tiên vào năm 1971. Sinh trưởng tại đảo Hawaii, Sam Kapu Jr xuất thân từ một gia đình nghệ sĩ, thừa hưởng năng khiếu âm nhạc từ thân phụ vốn có chất giọng baritone nồng ấm, mượt trầm, chuyên biểu diễn trên đài phát thanh, còn mẹ anh cũng là ca sĩ phòng trà, chuyên đi hát ban đêm tại các quán nhạc (Bina Mossman & Johanna Wilcox Glee Clubs). Nối bước song thân, Sam Kapu Jr vào nghề ca hát thông qua việc ghi âm cho đài phát thanh tại Honolulu. Anh thành danh vào đầu thập niên 1970 trong một nhóm nhạc pop bên cạnh nam ca sĩ người Mỹ gốc Hoa Donald Tai Loy Ho. Do nghệ danh của ông gọi tắt là Don Ho, cho nên thường có sự nhầm lẫn giữa tên ông gốc Hoa với ca sĩ người Việt Nam Don Hồ. Ngoài ca hát, cả hai thành viên Sam Kapu Jr và Donald Ho còn xuất hiện trong phim ảnh, cũng như thành công trên đài truyền hình Mỹ ABC nhờ hai chương trình « Kona Coast » và « The Don Ho Show » (1976-1978). Thời kỳ hoàng kim của Sam Kapu Jr là vào những năm 1970, thời anh lập kỷ lục số bán với nhạc phẩm « Choto Mate Kudasai » (tựa tiếng Anh là Never Say Goodbye), đồng thời anh đã thành công với nhiều ca khúc khác, trong đó có Love của Nat King Cole, You've got a Friend của Carole King và nhất là phiên bản tiếng Anh Manhã de Carnaval (A Day in the Life of a Fool) nhạc chủ đề của bộ phim Orfeo Negro (Black Orpheus) của tác giả người Brazil Luiz Bonfá. Về mặt sáng tác, « Choto Mate Kudasai » là của hai nữ tác giả Loyal Garner và Jeanne Marie Nakashima. Sinh trưởng tại đảo Hawaii (1946), Loyal Garner là ca sĩ kiêm tác giả thành danh vào những năm 1970 với ban nhạc Local Divas. Bốn thành viên của nhóm này đã phối hợp nhiều luồng ảnh hưởng với nhau, hòa quyện nhạc pop, nhạc jazz và soul, thậm chí một chút country với những điệu hát dân gian của các quần đảo Thái Bình Dương. Trong sự nghiệp của mình, Loyal Garner đã giành được hai giải thưởng âm nhạc của Hawaii Na Hoku Hanohano (tương đương với Grammy) dành cho giọng ca nữ xuất sắc nhất và giải Thành tựu sự nghiệp vào năm 2007. Về phần mình, nhà soạn nhạc Jeanne Marie Nakashima là người Mỹ gốc Nhật. Sinh trưởng tại Hoa Kỳ (1936), cô được đào tạo trong lãnh vực sáng tác dương cầm và độc tấu nhạc cổ điển tại Trường Cao đẳng Âm nhạc Chicago. Mặc dù đi biểu diễn nhạc cổ điển thường xuyên từ khi còn nhỏ, nhưng khi vào nghề Jeanne Marie Nakashima lại chọn sáng tác các ca khúc nhạc pop, những giai điệu gần gũi dễ nghe cho thị trường Nhật Bản và các chương trình giải trí truyền hình trên đảo Hawaii ... Chính tác giả Jeanne Marie Nakashima đã gợi ý đưa một số từ tiếng Nhật (kudasai, sakura, sayonara ….) vào trong một bản nhạc chủ yếu được viết bằng tiếng Anh. Điều đó tạo thêm nét khác lạ dễ thương cho giai điệu : Choto Mate Kudasai không những ăn khách trên đảo Hawaii mà còn được thính giả người Nhật tại Bắc Mỹ cũng như tại Châu Á ưa chuộng. Thành công của hai tác giả Garner và Nakashima đã ảnh hưởng sau đó đến trào lưu sáng tác ở vùng Thái Bình Dương kể cả những nhạc phẩm như « Million moons over Hawaii » (Muôn ánh trăng trên Hawaii) hay « Honolulu City Lights » (Đêm thành phố thắp sáng) phiên bản ghi âm của nhóm The Carpenters vào năm 1978 là bản phóng tác của nhóm The Beamer Brothers (Keola & Kapono). Do vậy có thể nói, đây là một bài hát tiếng Anh mang ảnh hưởng văn hóa Hawai, nơi có đến một phần năm dân số (22,3%) là người gốc Nhật theo khảo sát gần đây (2020) của Cục Điều tra Dân số Hoa Kỳ. Trong tiếng Việt, bài hát « Choto Mate Kudasai » từng được ca sĩ kiêm tác giả Trung Hành đặt thêm lời...

Duration:00:09:07

Ask host to enable sharing for playback control

Sáng tác của Bee Gees : Những phiên bản hoà âm mới

5/31/2025
Không phải ngẫu nhiên mà tạp chí Rolling Stone từng mệnh danh nhóm Bee Gees là cỗ máy sản xuất hàng loạt bài hát ăn khách. Với hơn 250 triệu đĩa nhạc được bán trên thế giới, ban nhạc Bee Gees thành công không kém gì Elvis Presley, The Beatles hay Michael Jackson. Ngoài các bản ghi âm thành công, ba anh em nhà họ Gibb còn soạn nhạc và sản xuất đĩa hát cho nhiều nghệ sĩ nổi tiếng khác, trong đó có nhạc phẩm « Heartbreaker », với phần ghi âm của nam ca sĩ Pháp Christophe Willem. Giai điệu "Heartbreaker" ban đầu được viết cho Dionne Warwick. Bản thân nữ ca sĩ cho biết cô không thích bài này cho lắm, nhưng cô vẫn tin tưởng vào kinh nghiệm sản xuất và tay nghề sáng tác của nhóm Bee Gees. Một sự chọn lựa đúng đắn, vì nhạc phẩm « Heartbreaker » (1982) trở thành bài hát ăn khách nhất của nữ danh ca người Mỹ. Trong tiếng Việt, bài này từng được Lưu Bích ghi âm, lời phóng tác « Chợt nhói con tim » là của tác giả Lan Anh. Nhạc phẩm « Heartbreaker » do cả ba anh em Gibb đồng sáng tác và có giọng hát đệm của Barry Gibb trong phần điệp khúc. Bài hát này từng đạt hạng 10 trên danh sách Hot100 và vị trí quán quân trên bảng xếp hạng Adult Contemporary của Billboard. Nhóm Bee Gees cũng có ghi âm một phiên bản riêng cho album phòng thu thứ 21 của mình (Still Waters/1997), nhưng mãi đến năm 2001, phiên bản của Bee Gees mới được phát hành trên băng đĩa. Một thập niên trước đó, sau khi lập kỷ lục số bán với nhạc phim « Saturday Night Fever » (Cơn sốt đêm thứ Bảy), nhóm Bee Gees đã được nhiều đồng nghiệp mời hợp tác. Nhóm này đã viết giai điệu « Grease » cho Frankie Valli, giọng ca chính của bộ tứ The Four Seasons, giai điệu « Emotions » cho Samantha Sang (và được Beyoncé ghi âm lại thời cô là thành viên của nhóm Destiny's Child), bản nhạc Islands in the Stream (Hòn đảo giữa dòng nước ấm) ban đầu viết cho ông hoàng nhạc soul Marvin Gaye, nhưng rốt cuộc lại về tay nam danh ca country Kenny Rogers. Và dĩ nhiên tài năng sáng tác của Bee Gees càng được công nhận khi Bee Gees thực hiện nguyên một album cho thần tượng Barbara Streisand, trong đó có nhạc phẩm kinh điển « Woman in Love ». Trong tiếng Việt, bài này có nhiều lời phóng tác : « Khi nàng yêu » (đôi khi được ghi là Đi tìm tình yêu) của tác giả Anh Bằng. Lời thứ nhì là « Người đàn bà khi yêu » của tác giả Lê Kim Lực. Sau khi viết các bản hit cho Dionne Warwick và Barbra Streisand, Diana Ross là người tiếp theo trên danh sách của Barry, Robin và Maurice Gibb. Bài hát « Chain Reaction » 1985 (Phản ứng dây chuyền) lấy cảm hứng từ các nhịp điệu Motown, thời kỳ Diana Ross là giọng ca chính của nhóm The Supremes. Trả lời phỏng vấn của Jon Kutner và Spencer Leigh, đồng tác giả quyển sách « 1000 UK #1 hits » (Một ngàn bản nhac số 1 Vương quốc Anh), Barry Gibb cho biết là Diana Ross đã hưởng ứng bài hát này môt cách nhiệt tình, vì giai điệu tôn vinh thời kỳ hoàng kim của Tamla Motown. Trong số những bài ghi âm mới, có phiên bản rất mộc của nhóm Moon Loungers. Trong số các bản cover gần đây của nhóm Bee Gees, có phần ghi âm đáng chú ý của giọng ca baryton trữ tình (lirico baritone) của nam ca sĩ người Anh Michael Ball. Thành danh kể từ năm 1987 trên sân khấu West End trong hai tác phẩm « Les Misérables » (Những người khốn khổ) và « The Phantom of the Opera » (Bóng ma trong nhà hát), anh đã hai lần đoạt giải thưởng cao qúy của làng nhạc kịch Anh, giải Laurence Olivier dành cho nam diễn viên xuất sắc nhất (2008 & 2013). Trong ba thập niên sự nghiệp ca hát và đóng phim, Michal Ball đã ghi âm hơn 30 album đủ loại. Những năm gần đây mở ra giai đoạn thành công thứ nhì khi Michael Ball hoà quyện tiếng hát của minh với giọng ca tenor Alfie Boe. Từ năm 2016 đến năm 2023, hai danh ca này đã cùng thu thanh 5 album trong loạt đĩa nhạc theo chủ đề « Together » (Bên nhau). Michael Ball diễn đạt khá trội các sáng tác của Bee Gees, chẳng hạn như bản nhạc «Immortality» viết cho Celine Dion, hay là một trong những giai điệu quen thuộc nhất của nhóm này là bài « To Love Somebody », xứng đáng vừa tầm với phiên bản...

Duration:00:09:11

Ask host to enable sharing for playback control

Sabrina Carpenter - “Ngắn gọn và ngọt ngào”

5/30/2025
Sabrina Carpenter chiếm sóng hầu hết phương tiện nghe nhìn và giải thưởng âm nhạc lớn trong năm qua. Nữ ca sỹ GenZ được gọi là công chúa nhạc pop mới nổi nhờ 2 bản hit nam châm Espresso và Please please please. Vị ngọt và đắng của bản hit Espresso Sabrina Carpenter không phải là cái tên quá xa lạ. Cô gái GenZ (sinh năm 1999) đã gia nhập làng giải trí hơn một thập kỷ khi còn là ngôi sao nhí trên kênh truyền hình Disney. Năm 2024, tên tuổi của Sabrina bừng sáng nhờ bản hit đình đám Espresso trong album mới Short and Sweet (Ngắn gọn và ngọt ngào). Giới phê bình đánh giá ca khúc này giống hương vị tách cà phê: ngắn gọn, hơi đắng. “Gói gọn trong 3 phút, cô gái thả mình giữa cung bậc của ham muốn thể xác, nỗi buồn bất tận và cơn giận dữ hận thù”. Ca khúc Espresso tạo dựng bệ phóng vững chãi cho cả album Short and Sweet. Ngạc nhiên hơn, đây là album phòng thu thứ sáu trong sự nghiệp của Sabrina. Tựa đề album cũng ám chỉ vóc dáng Sabrina, vì chiều cao của cô khá khiêm tốn 1,52 mét. Ngoài ra, bản hit Please please please (Làm ơn) cũng tạo dược dấu ấn riêng của Sabrina thông qua câu chuyện tình với gã trai hư. Cô lo ngại mối quan hệ đổ vỡ do tai tiếng của người bạn trai. Thông qua hai bản hit chủ đạo, Sabrina xây dựng hình ảnh cứng rắn, vui vẻ, ngổ ngáo, gợi cảm và quan trọng nhất là sự ngọt ngào. Đúng như tên gọi, album cô đọng và có độ ngọt như một cô gái trẻ hát về tình yêu. Chỉ vỏn vẹn 36 phút, 12 ca khúc của Sabrina đã làm nên chuyện lớn tại giải Grammy với 6 đề cử (gồm Nghệ sỹ mới xuất sắc nhất). Nữ ca sỹ Gen Z chiến thắng 2 giải Trình diễn pop solo xuất sắc và Album pop xuất sắc nhất. Cô hoàn toàn xứng đáng gặt hái thành quả lao động miệt mài trong nhiều năm qua. Chủ đề tình yêu và trả thù Tại sao Sabrina trở thành hiện tượng nhờ album thứ sáu này ? Nữ ca sỹ thu hút được lượng lớn fan trẻ nhờ phong cách hiện đại và tâm tư của GenZ. Ca từ các bài hát ám chỉ về tình cảm tan vỡ, lừa dối, tình dục, trả thù. Thú vị hơn, Sabrina đều thể hiện với sự ngọt ngào một cách dễ chịu. Giọng ca sinh năm 1999 mang tính giải trí cao, âm gió nhiều, nhẹ nhàng, tình tứ. Các bản hit chủ đạo như Taste, Juno, Espresso được sản xuất theo phong cách dance-pop, country-pop, disco, R&B có giai điệu dễ nghe, mượt mà. Trong ca khúc Juno, cô liên hệ tới bộ phim Hollywood cùng tên (nhân vật chính Juno mang bầu khi còn đang đi học). Ca từ bài hát mô tả cô gái mơ ước có bầu với người yêu khiến cô rung động và quan tâm hết mực để xây dựng mái ấm gia đình. Phải chăng giới trẻ dễ dãi trong tình yêu và kết hôn khi chỉ đề cao rung động thể xác và sự quan tâm ? Một ví dụ khác, Taste(Mùi vị) được dàn dựng công phu thành video clip, lấy cảm hứng từ nhiều phim hài đen tối Hollywood như Death becomes her (Cái chết dành cho nàng) hay The Addams Family (Gia đình Addams). Trên nền nhạc disco và tiết tấu dance rõ nét, nhân vật chính ám chỉ cách trả thù ngọt ngào sự phản bội của người yêu. Nếu anh ta lừa dối cô, mùi vị đầu lưỡi của anh vẫn chỉ là cô mà thôi. Kết thúc album Lies to Girls (Lừa dối các cô gái), album kết thúc đắng cay khi đề cập : You don’t have to lie to girls/if they like you, they’ll just lie to themselves (Anh không cần thiết phải lừa dối các cô gái/ Nếu họ thích anh, họ cũng chỉ lừa dối chính mình). Trong ca khúc Don’t smile (Đừng cười), cô hát với sự buồn bã về tình yêu đã mất (Don’t smile because it happened/Cry because it’s over” (Đừng cười vì chuyện đã xảy ra/Hãy khóc vì câu chuyện đã qua). Giới phê bình đánh giá cao nữ ca sỹ nhờ sự đa diện và đa chiều nhờ sự linh hoạt về thể loại nhạc và cách tiếp cận vấn đề. Tuy nhiên, chủ đề chính album xoay quanh các mối quan hệ chồng chéo và ám chỉ tình dục, do vậy, người nghe dễ bị nhàm chán nếu nghe liền mạch. Tựu chung lại, Sabrina tô vẽ được thế giới rất mong manh, nhiều cám dỗ, yêu đương, mạch cảm xúc đối lập, xen kẽ. Ngôi sao nhạc pop đa diện Sabrina không chỉ đơn thuần là ca sỹ mà còn đảm nhiệm vai trò nhạc sỹ và ý tưởng sản xuất. Ít người biết rằng nữ ca sỹ là đồng tác giả tất cả các ca khúc trong...

Duration:00:09:37

Ask host to enable sharing for playback control

Nhạc ngoại lời Việt : Tuấn Nghĩa và phiên bản tình ca mới của Elsa

5/24/2025
Lần đầu tiên thoáng nghe qua giai điệu « Ngọc Lan Hương », giới yêu nhạc Pháp nhận thấy ngay bản nhạc này rất quen thuộc. Đây là phiên bản phóng tác lời Việt gần đây của nhạc phẩm « Quelque chose dans mon cœur », từng ăn khách vài thập niên trước qua giọng ca của Elsa Lunghini. Phiên bản lời Việt mới là của tác giả Đinh Công Minh, qua phần trình bày của nam ca sĩ Tuấn Nghĩa. Trong làng nhạc Pháp, Elsa (Lunghini) là một nghệ sĩ đa tài, thành công trong cả hai lãnh vực ca nhạc và điện ảnh. Về thân thế, Elsa xuất thân từ một gia đình nghệ sĩ. Thân phụ của cô là nhạc sĩ Georges Lunghini chuyên sáng tác với bút danh Romain Ruel, dì của Elsa là diễn viên điện ảnh Marlène Jobert. Cũng như cô em họ là ngôi sao màn bạc quốc tế Eva Green, từ khi còn nhỏ Elsa đã được nuôi dưỡng trong môi trường nghệ thuật dồi dào, phong phú của gia đình. Ngay từ thuở thiếu thời, Elsa đã nuôi giấc mộng làm diễn viên điện ảnh hơn là ngôi sao ca nhạc. Vào năm mới lên 8, cô bé lần đầu tiên xuất hiện trên màn ảnh lớn trong bộ phim « Garde à vue » (Tạm giam) của đạo diễn Claude Miller, bên cạnh nhiều diễn viên trứ danh như Romy Schneider, Michel Serrault hay Lino Ventura. Mãi đến 5 năm sau, sự nghiệp đóng phim của Elsa mới thực sự cất cánh nhờ bộ phim « La Femme de ma vie » (hiểu theo nghĩa Một nửa của đời tôi), tác phẩm đầu tay của đạo diễn Régis Wargnier với Jane Birkin, Christophe Malavoy và Jean-Louis Trintignant trong vai chính, vài năm truớc khi ông Régis Wargnier quay bộ phim « Indochine » (Đông Dương) với Catherine Deneuve. Chính với bộ phim « La femme de ma vie » mà Elsa vào năm 13 tuổi có cơ hội phát huy tài năng ca hát qua việc ghi âm bản nhạc đầu tay. Nhạc phẩm chủ đề của bộ phim có tên là « T’en va pas » (Xin bố đừng đi) giành lấy ngôi vị quán quân trên thị trường Pháp trong vòng 8 tuần lễ liên tục, đạt hạng 7 trên thị trường châu Âu, lập kỷ lục số bán với gần hai triệu bản. Sự thành công của Elsa thực sự là một điều bất ngờ, ngoài mong đợi. Trên đà thành công ấy, thân phụ của Elsa, ông Georges Lunghini mới quyết định hợp tác với nhà soạn nhạc Vincent-Marie Bouvot (từng viết nhạc phẩm '« Ève lève-toi' » cho Julie Pietri) thực hiện nguyên một album cho cô con gái. Tác giả Georges Lunghini đồng sáng tác 10 trên tổng số 11 ca khúc cho album này. Mang tựa đề đơn giản ngắn gọn là « Elsa », album đầu tay bao gồm nhiều ca khúc ăn khách, giúp cho Elsa trở thành thần tượng nhạc trẻ những năm 1980, cùng thời với Vanessa Paradis. Trên album này, có hai bản song ca « Jamais nous » (Đừng lừa dối nhau) với Laurent Voulzy và nhất là « Un roman d'amitié » (Câu chuyện đôi bạn) với Glenn Medeiros. Còn ai biết rõ tâm tư khát vọng của Elsa (một cô bé ở tuổi đang trưởng thành) hơn là thân phụ của cô? Ngoài niềm đam mê điện ảnh thể hiện qua hai nhạc phẩm « Le rôle de sa vie » (Vai diễn để đời) hay « Nostalgie-Cinéma » (Thước phim hoài niệm), Georges Lunghini còn thành công khi đồng sáng tác với Pierre Grosz nhạc phẩm « Quelque chose dans mon cœur ». Nội dung bản nhạc tinh tế nhạy cảm được viết như một kịch bản phim, cả hai tác giả mượn « thủ pháp điện ảnh » để đặt góc nhìn từ phía nhân vật trong bài hát, khi nói lên nỗi bâng khuâng của lứa tuổi dậy thì, vừa muốn khám phá thế giới của người lớn nhưng đồng thời không đành lòng từ giã thiên đường tuổi thơ, với bao niềm khao khát ước mơ trở thành một « Ava Gardner » mà vẫn không quên mất mình là ai. Album đầu tay giúp cho Elsa thành công trong làng nhạc, bên cạnh những vai diễn điện ảnh và sau đó là trong phim truyền hình. Trong vòng hai thập niên liền từ năm 1988 đến năm 2008, Elsa đã cho ra mắt 8 album, giai đoạn huy hoàng nhất là trong 10 năm đầu. Hiện giờ Elsa chủ yếu đi hát trên sân khấu với đoàn nghệ sĩ Les Enfoirés gây quỹ cho Các quán ăn tình thương (Les Restos du Coeur). Elsa dành nhiều thời gian cho việc đóng phim truyền hình nhiều tập, chẳng hạn như hai loạt phim « Cherif » hay là « Ici tout commence ». Trong số các bản nhạc ăn khách, có khác nhiều tình khúc của Elsa đã được đặt thêm lời Việt : « Jour...

Duration:00:09:08

Ask host to enable sharing for playback control

Cuộc thi hát Eurovision : Liệu ca sĩ Louane có thể đem giải nhất về cho nước Pháp ?

5/17/2025
Tối thứ bảy 17/05/2025, mọi cặp mắt của giới hâm mộ đều hướng nhìn về Cung thể thao văn hóa Saint JakobsHalle, nhà hát lớn của thành phố Basel, Thụy Sĩ, nơi tổ chức vòng chung kết Cuộc thi hát truyền hình châu Âu Eurovision lần thứ 69. Ca sĩ Pháp Louane dự thi với nhạc phẩm « Maman », tưởng niệm người mẹ quá cố. Lần này Louane hợp tác với nhà biên đạo múa Thụy Điển Fredrik Rydman, người đã giúp cho nhiều ca sĩ khác đoạt giải nhất trong những năm trước. Cho đến giờ phút cuối, trước khi vòng chung kết mở màn trên sân khấu nhà hát lớn, các cuộc dự đoán vẫn diễn ra khá sôi nổi. Theo đánh giá của các nhà bookmaker, chuyên tổ chức cá cược, trên số 26 thí sinh lọt vào vòng chung kết năm nay, Thụy Điển vẫn là nước có nhiều triển vọng đoạt giải nhất. Ban tam ca KAJ được đánh giá cao nhò giai điệu tươi tắn trẻ trung « Bara Bada Bastu » phối hợp với màn vũ đạo hài hước vui nhộn. Ở hạng nhì, ca sĩ người Áo J.J đi tranh giải với nhạc phẩm « Wasted Love », phối hợp pop điện tử với hoạt cảnh video ba chiều. Về phần mình, nữ ca sĩ Louane đại diện cho nước Pháp, sẽ trình bày nhạc phẩm « Maman » (Nhắn nhủ mẹ hiền) tuy không có nhiều xác xuất thành công bằng hai nước Áo và Thụy Điển, nhưng vẫn được các chuyên gia bookmaker xếp vào trong Top Năm của cuộc thi năm nay. Về phía các thí sinh khác : Phần Lan, Bồ Đào Nha, Bỉ, Malta, Estonia hay Cộng hòa Séc đều lọt vào Top Mười. Để tạo thêm cơ hội thành công, Louane đã nhờ đến nhà biên đạo múa Thụy Điển Fredrik Rydman để dàn dựng màn biểu diễn của cô. Xuất thân từ làng kịch nghệ, anh từng sáng lập đoàn múa Bounce, dung hòa ballet hiện đại với nghệ thuật đường phố vào đầu những năm 1990. Thành danh nhờ cập nhật lại các vở múa kinh điển như « Hồ thiên nga, Macbeth, West Side Story hay Chuyện tình Romeo & Juliet », anh thường được mời hợp tác với các nghệ sĩ nhạc pop điện tử (Robyn, Avicii) từ khoảng một thập niên gần đây. Nhờ vào tài nghệ dàn dựng của Fredrik Rydman, nhiều nghệ sĩ tham gia Eurovision đều gặt hái nhiều thành tích ngoạn mục : đó là trường hợp của nam ca sĩ người Thụy Điển Måns Zelmerlöw đoạt giải nhất năm 2015 với ca khúc « Heroes » (Anh hùng thời đại) và gần đây hơn nữa nhà biên đạo múa đã tạo cơ hội cho thi sinh người Thụy Sĩ Nemo giành lấy hạng đầu cuộc thi Euovision năm ngoái (2024) nhờ bản nhạc « The Code » (Mật mã). Nói như vậy,liệu nhà biên đạo múa Fredrik Rydman có thể giúp ca sĩ Pháp Louane bước lên bục vinh quang, giành được hạng nhất cuộc thi Eurovision năm 2025 tại Basel hay không ? Hiện vẫn còn hơi sớm để khẳng định điều này, nhưng rõ ràng là Louane muốn trông cậy vào lối dàn dựng hoạt cảnh của Fredrik Rydman để làm nổi bật thông điệp của bài hát dự thi. Tuy nổi tiếng ở Pháp nhưng Louane vẫn còn khá xa lạ với khán giả châu Âu. Do chưa có đủ tầm ảnh hưởng để ngự trị bảng xếp hạng, cho nên triển vọng về đầu của Louane, trong mắt các chuyên gia, vẫn còn khá mong manh. Năm nay 28 tuổi, Louane Emera sinh trưởng tại vùng Pas de Calais (miền bắc nước Pháp). Cô thành danh vào năm 17 tuổi nhờ tham gia chương trình thi hát truyền hình The Voice, phiên bản tiếng Pháp. Tuy không về đầu cuộc thi, nhưng giọng ca của Louane lọt vào tai của đạo diễn Éric Lartigau, nhờ vậy cô được giao vai chính trong bộ phim « La Famille Bélier » (2024) nói về giấc mộng làm ca sĩ của một cô bé, cho dù cô lớn lên trong một gia đình, mà bố mẹ đều là người câm điếc. Bộ phim này sau đó đã đoạt giải Oscar của Mỹ dành cho tác phẩm hay nhất « Coda » (2022) nhờ phiên bản phóng tác tiếng Anh của đạo diễn Si/an Heder. Có thể nói thành công trong cả hai lãnh vực âm nhạc và điện ảnh đến với Louane năm cô chỉ mới 18 tuổi : Louane đoạt giải điện ảnh Pháp César nhờ tài năng diễn xuất cũng như giải thưởng âm nhạc Victoires de la Musique cho tác phẩm đầu tay. Thế nhưng, đó cũng là giai đoạn Louane mồ côi song thân, chứng kiến cảnh bố mẹ mình đều lần lượt qua đời vì bạo bệnh. Thay vì là một trở ngại, vết thương tâm hồn này lại tạo thêm ý chí vươn lên nơi cô ca sĩ người Pháp. Trong một thập niên qua, Louana đã ghi âm 5...

Duration:00:09:09

Ask host to enable sharing for playback control

Nhạc Pháp lời Việt : 50 năm giai thoại « Chờ phone của anh »

5/10/2025
Năm 2025 đánh dấu đúng nửa thế kỷ ngày phát hành nhạc phẩm « Téléphone-moi ». Đây là một trong những tình khúc gắn liền với tên tuổi của Nicole Croisille, giọng ca Pháp hàng đầu những năm 1970 và 1980. Trong tiếng Việt, giai điệu « Téléphone-moi » từng được phóng tác thành nhạc phẩm « Chờ phone của anh ». Do hai nhạc sĩ Christian Gaubert và Pierre André Dousset đồng sáng tác, nhạc phẩm « Téléphone-moi » được Nicole Croisille ghi âm vào năm 1975, thời kỳ xã hội Pháp đang có nhiều thay đổi sâu rộng : luật Veil cho phép phụ nữ quyền phá thai, vai trò của phụ nữ được coi trọng hơn trong gia đình cũng như ngoài xã hội. Trong bối cảnh ấy, giọng hát của Nicole Croisille nhẹ nhàng vang lên như một lời nhắn nhủ về khát vọng của người phụ nữ, họ có quyền tự chủ, sống theo ý mình, đoạn tuyệt ra đi nếu không còn cảm thấy hạnh phúc dưới « mái ấm » gia đình. Về mặt diễn đạt, Nicole Croisille đã hóa thân một cách tài tình vào nhân vật trong bài hát. Dựa vào chất giọng sâu sắc cao vút, mạnh mẽ nhưng vẫn mong manh, giọng ca này đã truyền tải trọn vẹn những cung bậc cảm xúc của người đàn bà trong một tình huống phức tạp. Giai điệu « Téléphone-moi » nói về một mối tình tay ba đầy trắc trở, người phụ nữ quyết định rời bỏ chồng mình để tìm lại nhân tình. Đằng sau dáng vẻ yếu đuối ấy lại tiềm ẩn một sự quyết đoán, như thể nhân vật trong bài hát khó cưỡng lại tiếng gọi thôi thúc của trái tim. Liệu ta có thể xây dựng hạnh phúc bản thân trên nỗi bất hạnh của một người khác, bất kể người ấy là bạn đời hay tình nhân. Cú điện thoại của người tình chẳng qua là một cái cớ để cho nhân vật chính có đủ can đảm để nói lên sự thật với gia đình mình. Ngay từ khi được phát hành, « Téléphone-moi » đã nhanh chóng chinh phục người nghe, dẫn đầu bảng xếp hạng thị trường Pháp. Nhưng thành công của giai điệu không chỉ dừng lại ở doanh thu số bán, mà còn tạo ra được dấu ấn sâu đậm. Cho đến tận ngày nay, bài hát này vẫn được công chúng yêu mến, nhờ thu hút được nhiều thế hệ mà trở nên kinh điển. Nicole Croisille là một nghệ sĩ đa tài, bà từng là một vũ công, diễn viên điện ảnh, nghệ sĩ nhạc kịch. Trong mắt công chúng, bà nổi tiếng như một trong những ca sĩ Pháp hàng đầu những năm 1970. Trong nhiều thập niên sự nghiệp, Nicoel Croisille đã ghi âm khoảng 20 album và bán được hàng triệu đĩa nhạc. Trước khi trở thành một ngôi sao sáng, Nicole Croisille chủ yếu đi hát tại những quán nhạc jazz. Thành công lớn đầu tiên của Nicole Croisille là vào năm 1966 với nhạc phẩm « Un homme et une femme », nhạc chủ đề của bộ phim cùng tên của đạo diễn Pháp Claude Lelouch. Trong những năm sau đó, bà tiếp tục gặt hái được nhiều thành công với nhiêu nhạc phẩm nổi tiếng như « Parlez-moi de lui », « Une femme avec toi » và dĩ nhiên không thể nào không nhắc đến nhạc phẩm « Téléphone-moi ». Trong tiếng Việt, giai điệu « Téléphone-Moi » từng được tác giả Tùng Giang chuyển thành nhạc phẩm « Chờ phone của anh », từng được nhiều giọng ca trứ danh như Ngọc Lan, Kiều Nga, Thanh Hà, Y Phương, Dương Hoàng Yến, Ngọc Huyền ghi âm. Lời phóng tác tiếng Việt chưa lột tả được hết tình huống éo le của bản nguyên tác tiếng Pháp. Có lẽ, chính nội dung phức tạp đã tạo thêm sức cuốn hút bền bỉ cho bản nhạc này. Phải công nhận rằng, giọng hát đầy mê hoặc của Nicole Croisille có thêm chiều sâu nhờ bản phối khí hòa âm tài tình, hòa quyện cả hai nét dịu dàng và mạnh mẽ, phản ánh sự giằng co, đắn đo. Chính điều đó đã tạo nên một bức phác họa đầy màu sắc âm thanh, chạm đến những ngóc ngách sâu thẳm trong trái tim người yêu nhạc Pháp : Đêm nay đành phải từ biệt, cho dù người chẳng hề biết, hạnh phúc còn chăng nụ cười, nhà ai có niềm vui mới. Vực thẳm tâm hồn trống rỗng, nhân tình tiếng gọi bên trong, kẻ ở tan tác giấc mộng, người đi dẫm nát cõi lòng …..

Duration:00:09:11

Ask host to enable sharing for playback control

Nhạc Pháp lời Việt : Mike Brant, tình khúc trong đêm vẫn còn sáng mãi

5/3/2025
Cuối tháng 4 năm 2025 đánh dấu đúng nửa thế kỷ ngày Mike Brant qua đời. Nhân dịp này, Paris đã khánh thành một quảng trường mang tên Mike Brant, trong khi gia đình của nam danh ca người Israel cho ra mắt bộ sưu tập đĩa nhựa « Mais dans la lumière » (Trong đêm vẫn sáng) kỷ niệm 50 năm ngày anh mất. Việc đặt tên Mike Brant cho một quảng trường ở Paris đã được Hội đồng thành phố chính thức thông qua vào năm 2018, nhưng mãi đến bây giờ mới được khánh thành, với sự hiện diện của ông Jérémy Redler, thị trưởng quận 16 và Yona Brant, cháu gái của nam danh ca quá cố. Không phải ngẫu nhiên, Paris đã chọn quảng trường này, nằm giữa đại lộ Victor Hugo và đường Spontini, nằm đối diện với căn hộ lưu trú đầu tiên của Mike Brant khi anh vừa mới đến Paris thử thời vận. Trong sự nghiệp ngắn ngủi, chỉ kéo dài trong 5 năm tại Pháp, Mike Brant luôn thuê những căn hộ trong cùng quận 16, cho dù anh đã nhiều lần thay đổi địa chỉ để tránh sự săn lùng của giới phóng viên nhiếp ảnh và của người hâm mộ, thường xuyên tụ họp trước nhà anh cả ngày lẫn đêm, với hy vọng được gặp thần tượng của họ. Đây là cái giá phải trả vì Mike Brant lúc bấy giờ là một nghệ sĩ cực kỳ nổi tiếng. Mike Brant và Sylvie Vartan : Không hẹn mà gặp Bản thân Mike Brant cũng không thể ngờ rằng anh sẽ thành công tại Pháp nhanh đến như vậy. Năm 1969, anh đã dành toàn bộ tiền tiết kiệm của mình để mua một vé máy bay sang Pháp (khứ hồi Tel Aviv-Paris). Vài tháng trước đó, anh tình cờ gặp thần tượng nhạc trẻ Sylvie Vartan tại một quán nhạc, nơi anh thường xuyên biểu diễn vào buổi tối. Trên sân khấu phòng trà, Mike Brant không chỉ hát dân ca Do Thái mà còn trình bày những bản nhạc tiếng Anh (của Elvis Presley, Frank Sinatra) hay tiếng Pháp quen thuộc (của Aznavour và Bécaud). Trong số các khán giả hôm ấy có Sylvie Vartan và thư ký riêng của cô, sau này là nam danh ca hài hước Carlos. Sau khi được nghe chất giọng thiên phú của Mike Brant, Sylvie Vartan mới nói với anh rằng : làng nhạc Pháp cần có những giọng hát xuất sắc như vậy, nên cô khuyên Mike Brant đến Paris lập nghiệp, và nếu cần, thì cô (và Carlos) sẽ giúp anh một tay. Sylvie Vartan đã để lại số điện thoại của mình (và của Carlos) cho Mike Brant. Thế nhưng vài tháng sau, không ai lại bắt máy trả lời khi Mike Brant đến Pháp vào mùa xuân năm 1969. Nam ca sĩ đã hoài công chờ đợi hơn một tuần tại khách sạn. Tưởng chừng như không có giải pháp nào khác, Mike Brant, do hết sạch tiền, cho nên anh đành phải trở về Israel. Tại sân bay Orly, anh đã thử gọi điện thoại một lần cuối cùng. May mắn thay, thư ký riêng của Sylvie Vartan bỗng bắt máy trả lời, và xin lỗi anh đã không thể trả lời sớm hơn, vì anh phải tháp tùng Sylvie Vartan bận đi lưu diễn ở Nhật Bản. Theo lời khuyên của anh thư ký riêng, Mike Brant quyết định ở lại Paris, trong thời gian đầu anh tạm ở nhà của Carlos, ngay tại khu phố Saint-Germain des Prés. Vài ngày sau đó, anh được giới thiệu với tác giả Jean Renard, người chuyên soạn nhạc cho Sylvie Vartan : La Maritza / Dòng sông tuổi nhỏ, lời Việt của Vũ Xuân Hùng, Non je ne suis plus la même / Sầu tình, lời Việt của Khúc Lan). Tác giả Jean Renard đã chấp bút sáng tác bản nhạc đầu tay cho Mike Brant. Nhạc phẩm Laisse moi t’aimer (Yêu trọn đêm nay) lập kỷ lục số bán vào đầu năm 1970. Thành công bước đầu này mở đường cho Mike Brant chinh phục thị trường Pháp và ngự trị trong vòng nhiều năm liền. Người đi xa nên biết chọn đường Tuy Mike Brant trở nên nổi tiếng nhờ các giai điệu trữ tình của Jean Renard, trong đó có Rien qu'une larme (Chỉ cần một giọt lệ) hay Parce que je t'aime plus que moi (Yêu người hơn yêu ta), một số bản nhạc đồng sáng tác với Michel Jourdan và Michel Mallory, nhưng hai năm sau, mỗi người lại đi một hướng, không còn hợp tác với nhau. Mike Brant chọn làm việc với những nhà sản xuất khác, nhưng lại không ngờ rằng, anh sẽ bị phản bội : người nhẹ dạ cả tin, mà lại không biết chọn mặt gửi vàng. Mặc dù thành công trên thị trường châu Âu nhờ bán được hàng triệu đĩa nhạc, các vòng lưu diễn tại châu Âu (Pháp,...

Duration:00:09:52

Ask host to enable sharing for playback control

Nhạc Pháp lời Việt : Claire d'Asta và giai điệu « Tình anh tha thiết »

4/26/2025
Claire d'Asta, một nghệ danh vang vọng như một tiếng thì thầm dịu dàng nhưng đầy mãnh lực quyến rũ trong vườn nhạc. Ca sĩ kiêm tác giả người Pháp có phong cách kín đáo, nhưng vẫn để lại dấu ấn khá quan trọng trong dòng nhạc Pháp đầu những năm 1980. Tên tuổi của Claire d'Asta được gắn liền với giai điệu « Avec l'amour en plus », bài hát này từng được dịch sang tiếng Việt thành nhạc phẩm « Tình anh tha thiết ». Sinh trưởng tại miền nam nước Pháp (1953), Claire d'Asta ban đầu vào nghề như một tác giả trước khi nổi danh nhờ giọng ca. Từ thuở thiếu thời, Claire d'Asta học đàn tại nhạc viện thành phố Marseille, khi lớn lên cô được đào tạo thanh nhạc với một danh ca làng kịch opéra, Christiane Castelli. Sau khi tốt nghiệp vào năm 21 tuổi, cô được nam ca sĩ Christian Delagrange mời đi hát chung trên các sân khấu lớn ở Pháp trong bốn năm liền. Đây là giai đoạn Claire d'Asta sáng tác nhiều ca khúc đầu tay, trong đó có nhạc phẩm « Fais moi rêver » (Người dệt mộng cho ta). Đầu những năm 1980, vào lúc phong trào nhạc pop và disco đang ngự trị trên làn sóng radio, một giọng hát êm dịu sâu lắng nhẹ nhàng cất lên, khơi dậy ngọn lửa đam mê nhờ một giai điệu êm đềm tưởng chừng đã quên. Nhạc phẩm « La Chanson de Prévert », do nhạc sĩ Serge Gainsbourg sáng tác cho Yves Montand hai thập niên trước đó (1961), bỗng dưng thịnh hành trở lại. Nhờ tài nghệ diễn đạt tinh tế nhạy cảm, Claire d'Asta đã giúp công chúng Pháp khám phá lại bài hát nổi tiếng của tác giả Gainsbourg, nay đã trở nên kinh điển. Một bài hát của một giọng ca hầu như không theo thời, tưởng chừng ít có cơ hội, nào ngờ lại thành công vang dội. Sau khi ăn khách trên thị trường Pháp, bài hát này còn đoạt giải thưởng của ban giám khảo nhân kỳ Liên hoan Âm nhạc Tokyo năm 1982. Thành công này mở đường cho Claire d'Asta hợp tác với nhiều tên tuổi lớn. Chính nhạc sĩ Michel Mallory, tác giả chuyên soạn nhạc cho nam danh ca Johnny Hallyday, đã thuyết phục Claire d'Asta ghi âm với giọng hát của mình, thay vì chỉ đơn thuần viết nhạc. Hai nghệ sĩ này hợp tác với nhau trong 8 năm liền, Claire d'Asta thể hiện tài tình những giai điệu của Michel Mallory, trong đó có nhiều bài hát ăn khách như « Une nuit de ta vie » (Chỉ còn một đêm trong đời), « Dans la maison de mon père » (Trong ngôi nhà của cha tôi) hay « J'ai pleuré sur ma guitare » (Nước mắt trên cung đàn) song ca với Johnny Hallyday ….. Vào giữa những năm 1990, Claire d'Asta lập gia đình và thành hôn với nhạc sĩ Jean Musy. Sau một thời gian dài ghi âm và đi biểu diễn, cả hai chuyển hướng sang ngành sáng tác nhạc phim. Cặp nghệ sĩ này đã đồng hành cùng nhau trong gần ba thập niên liền cho đến khi ông Jean Musy qua đời vì bạo bệnh vào năm 2024. Quan hệ hợp tác chặt chẽ thân thiết này đã cho ra đời nhiều tác phẩm xuất sắc, trong đó có giai điệu « Cuore addolorato » (Trái tim đau buồn), nhạc phẩm chủ đề của bộ phim « L'Ange noir » của đạo diễn Jean Claude Brisseau, với thần tượng nhạc Pháp Sylvie Vartan và nam diễn viên Michel Piccoli trong vai chính. Hiện giờ, Claire d'Asta đã giải nghệ sân khấu nhưng cô vẫn tiếp tục đi hát nhân các kỳ liên hoan, mở lớp dạy nhạc, truyền lửa cho thế hệ sau tại (thị trấn Louveciennes) vùng ngoại ô Paris. Trong số các bản nhạc nổi tiếng ru hồn giới yêu nhạc của Claire d'Asta, có giai điệu « Avec l'amour en plus » (Yêu không hối tiêc). Trong tiếng Việt, bài hát này từng được phóng tác với nhiều lời khác nhau. Lời đầu tiên của tác giả Vũ Xuân Hùng, chuyển thành nhạc phẩm « Tình anh tha thiết » do các nghệ sĩ như Kiều Nga hay Thiên Kim ghi âm. Lời thứ nhì là của tác giả Thái Thịnh mang tựa đề « Tình yêu còn lại » do hai ca sĩ Don Hồ và Lam Anh trình bày. Trong tim còn lại bao kỷ niệm, thời gian tưởng chừng khó lay chuyển. Ngày thơ ấu tình yêu chưa đến, tuổi xuân hai định mệnh gắn liền. Đành rằng mọi thứ cũng sẽ tan, tháng năm tươi tắn cũng chẳng còn.

Duration:00:09:12

Ask host to enable sharing for playback control

Nhạc Pháp lời Việt : Christophe Rippert và tình khúc « Giấc mơ sa mạc »

4/19/2025
Tại Pháp, giới trẻ lớn lên trong hai thập niên 1980-1990 đều biết đến chương trình giải trí Club Dorothée (Câu lạc bộ Dorothée) và loạt phim truyền hình nhiều tập « Premiers baisers » (Những nụ hôn đầu) do công ty AB Productions sản xuất. Từ các chương trình này, có hai gương mặt sau đó trở nên nổi tiếng nhờ ghi âm nhiều ca khúc : Hélène Rollès và Christophe Rippert. Sinh trưởng tại thị trấn Saint-Priest, vùng ngoại ô thành phố Lyon, Christophe Rippert ban đầu nuôi mộng trở thành một tay quần vợt chuyên nghiệp. Nhờ có vóc dáng cao ráo, khuôn mặt bảnh trai cho nên anh đã có dịp làm người mẫu chụp ảnh quảng cáo. Năm 22 tuổi (1991), Christophe Rippert bắt đầu làm diễn viên trong bộ phim truyền hình « Premiers Baisers » (Những nụ hôn đầu). Trong bộ phim nhiều tập này, mặc dù Christophe Rippert chỉ đóng một vai phụ (vai Luc) nhưng nhân vật này lại được khán giả đặc biệt yêu thích, đến mức nhà sản xuất Jean-Luc Azoulay đã đề nghị anh ghi âm một số bài hát, song song với việc đóng phim truyền hình. Ngay từ bước đầu, anh đã thành công ngay lập tức khi nhạc phẩm « Un amour de vacances », ca khúc chính của album đầu tay, lập kỷ lục số bán với hơn nửa triệu bản, đạt hai lần mức đĩa bạch kim. Album đầu tiên của Christophe Rippert được phát hành vào mùa hè năm 1993. Giống như những ca sĩ khác có ký hợp đồng với công ty AB, các bài hát của anh đều do hai nhạc sĩ Gérard Salesses và Jean-François Porry (bút danh của Jean-Luc Azoulay) sáng tác. Cặp bài trùng này chuyên soạn nhạc cho Hélène Rollès (Je m'appelle Hélène), Emmanuelle Mottaz (Premiers Baisers) hay Christophe Rippert (La vie sans toi / Nếu không còn em) Vào năm 25 tuổi, khi vai diễn của anh trong loạt phim « Những nụ hôn đầu » ngày càng trở nên quan trọng, Christophe Rippert cho ra mắt album phòng thu thứ hai mang tựa đề « À corps perdu » (Yêu hết mình). Mặc dù doanh thu lần này không cao bằng album đầu tiên, nhưng album thứ hai giúp cho các vòng lưu diễn của anh tại các sân khấu lớn thu hút đông đảo khán giả trẻ tuổi, nhà hát chật kín chỗ ngồi. Năm 1995 đánh dấu một số thay đổi quan trọng trong sự nghiệp của Christophe Rippert, sau 4 năm thành công liên tục trên kênh truyền hình TF1, bộ phim « Premiers baisers » (319 tập) kết thúc để nhường chỗ lại cho những bộ phim nhiều tập khác « Les Années fac / 1995» (Những năm tháng đại học) cũng như « Les Années bleues / 1998 » (Những năm tháng khởi nghiệp). Sở dĩ có sự thay đổi này là vì hầu hết các diễn viên « nhí » đều đã lớn lên, và khung cảnh trường đại học, cũng như sở làm hợp hơn với lứa tuổi trưởng thành của họ. Phần sau này tiếp tục thành công và các nhà sản xuất dành một vai diễn quan trọng hơn nữa cho Christophe Rippert. Đang trên đà thành công, anh phát hành album phòng thu thứ ba vào năm 1996. Nhưng vầng hào quang của Christophe Rippert bắt đầu bị lu mờ, những năm tháng thành công tột bực dường như đã qua. Album thứ ba gặp thất bại, trong khi trên màn ảnh nhỏ, loạt phim truyền hình thứ ba cũng không còn thu hút được nhiều khán giả, do vậy phim bị hủy bỏ dù chỉ mới quay được 22 tập, thay vì 200 tập như những mùa phim đầu. Christophe Rippert rời nghề ca hát sau khi hết hợp đồng với công ty AB Productions. Những năm sau đó anh cố gắng theo đuổi sự nghiệp diễn xuất, tham gia một số bộ phim truyền hình « Sous le soleil » (Dưới ánh nắng) đồng thời chuyển hướng sang nghề phân phối sản xuất, mở công ty quảng cáo xa xỉ phẩm. Sau hơn một thập niên vắng bóng, Christophe Rippert trở lại phòng thu để ghi âm album thứ tư mang tựa đề « Free » (Tự do), phát hành vào cuối năm 2012. Album này bao gồm 13 bản nhạc hoàn toàn bằng tiếng Anh, trong đó có nhạc phẩm « Summertime » chính là bản phóng tác của giai điệu tiếng Pháp « Un amour de vacances » (Chuyện tình nhân kỳ nghỉ hè) Có khá nhiều bài hát của Christophe Rippert từng được dịch sang tiếng Việt. Quen thuộc nhất vẫn là nhạc phẩm « Un amour de vacances » có nhiều lời phóng tác khác nhau. Lời thứ nhất mang tựa đề là « Giấc mơ sa mạc » của tác giả Lê Hựu Hà, nhưng cũng có nguồn ghi là...

Duration:00:09:09